BÀI VĂN KHUYÊN PHÁT LÒNG BỒ ĐỀ (Phần 1)
(THẬT HIỀN ĐẠI SƯ SOẠN)
Từng nghe: Cửa yếu vào đạo, phát tâm làm đầu. Việc gấp tu hành, lập nguyện ở trước. Nguyện lập, tất chúng sanh có thể độ. Tâm phát, thì Phật đạo mới kham thành. Nếu không phát tâm rộng lớn, lập nguyện vững bền, thì trải kiếp số như vi trần, vẫn còn trong vòng sanh tử. Dù có tu hành siêng khổ, chỉ luống công khó nhọc mà thôi!
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu quên mất tâm Bồ đề mà tu các pháp lành đó là nghiệp ma”. Quên mất còn như thế, huống là chưa phát ư? Cho nên, muốn học Như Lai thừa, trước phát Bồ đề nguyện. Điều này vẫn không thể lần lựa vậy.
Nhưng sự sai biệt của tâm nguyện, tướng trạng có rất nhiều. Nay xin vì đại chúng, mà ước lược tỏ bày. Phát tâm gồm tám tướng là: tà, chánh, chân, ngụy, cùng đại, tiểu, thiên, viên. Tám tướng ấy như thế nào?
1. Trong đời có người tu, chỉ một bề hành theo sự tướng, không xoay vào tham cứu chân tâm. Hoặc theo việc bên ngoài, ưa thích hư danh, mong cầu lợi dưỡng. Hoặc đắm mê huyễn cảnh, tham dục lạc hiện tại, cầu phước báu đời sau. Phát tâm như thế gọi là Tà.
2. Bậc không cầu lợi dưỡng, cũng chẳng thích hư danh, vui hiện thế không màng, phước vị lai chẳng tưởng. Chỉ vì sự sống chết, mong cầu đạo Bồ đề. Phát tâm như thế gọi là Chánh.
3. Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh. Nghe thành Phật lâu xa chẳng khiếp lui, thấy chúng sanh khó độ không chán mỏi. Như leo non cao muôn dặm, quyết trèo tận đỉnh. Như lên tháp báu chín cấp, đến ngọn chót cùng. Phát tâm như thế gọi là Chân.
4. Có tội không sám hối, có lỗi chẳng biết trừ. Trong trược mà ngoài thanh, trước siêng nhưng sau trễ. Tuy có lòng tốt, song xen lẫn với lợi danh. Dù tu pháp lành, bị tội nghiệp làm ô nhiễm. Phát tâm như thế gọi là Ngụy (Dối).
5. Chúng sanh độ hết, bản nguyện mới cùng. Phật đạo tròn nên, thề nguyện mới mãn. Phát tâm như thế gọi là Đại.
6. Xem ba cõi như tù ngục, nhìn sống chết tợ oan gia. Chỉ mong tự độ, không muốn độ người. Phát tâm như thế gọi là Tiểu.
7. Thấy ngoài tâm có chúng sanh, mình phải độ. Hiểu ngoài tâm có Phật đạo, rồi nguyện thành. Công tu tập chẳng sạch quên, sự kiến giải không tiêu mất. Phát tâm như thế gọi là Thiên (Lệch).
8. Biết chúng sanh là tánh mình, nên nguyện độ thoát. Rõ Phật đạo là tánh mình, nên nguyện viên thành. Lìa ngoài nguồn tâm thể, không thấy có pháp chi. Rồi dùng tâm rỗng như hư không, phát nguyện lớn như hư không, tu hạnh rộng như hư không. Kết cuộc chứng quả vô chứng đắc như hư không, cũng chẳng thấy có tướng “không”. Phát tâm như thế gọi là Viên.
Tám lối phát tâm trên đã biết rành rẽ. Nên tự xét kỹ, xem mình phát tâm thuộc về cách nào? Nếu thấy là Tà, Ngụy, Tiểu, Thiên, phải lập tức sửa đổi. Như thuộc Chánh, Chân, Viên, Đại, nên bền chắc thêm lên. Như thế mới gọi là chân chánh phát Bồ đề tâm.
Bồ đề tâm này là vua trong các pháp lành, phải có nhân duyên mới phát khởi được. Nhân duyên ấy đại ước có mười thứ:
1. Vì nghĩ đến ơn Phật: - Đức Thích Tôn ta, khi mới phát tâm, vì độ chúng ta, tu Bồ Tát đạo, trải vô lượng kiếp chịu đủ sự khổ. Lúc ta tạo nghiệp, đức Phật xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu si, không chịu tin theo. Ta đọa ác đạo, Phật lại càng thương, muốn thay chịu khổ. Nhưng ta nghiệp nặng, không thể cứu vớt. Ta sanh làm người, Phật dùng phương tiện, khiến gieo căn lành, nhiều kiếp theo dõi, lòng không tạm bỏ. Phật mới ứng thế, ta còn trầm luân, nay được thân người, Phật đã diệt độ. Tội chi mà sanh nhằm mạt pháp? Phước gì mà dự Tăng luân? Chướng chi mà không thấy kim thân? May gì mà được gặp Thánh tượng?
Rồi tự suy nghĩ: Nếu đời trước chẳng trồng căn lành, thì làm sao được nghe Phật pháp? Không nghe chánh pháp, đâu biết mình thường thọ Phật ân? Ân đức này, bể thẳm khôn cùng, non cao khó sánh! Nếu không phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ Tát, giữ vững chánh pháp, cứu độ chúng sanh, thì dù nát thịt tan xương, cũng không đền đáp được! Đây là nhân duyên thứ nhất.
2. Vì nhớ ơn cha mẹ: - Than ôi cha mẹ, sanh ta khó nhọc! Mười tháng mang thai mỏi nặng, ba năm bú sữa mớm cơm. Khi được nên người, chỉ mong ta nối dõi tông đường, tự thừa tiên tổ. Ngờ đâu ta đã xuất gia, lạm xưng Thích tử, không dâng cơm nước, chẳng đỡ tay chân. Cha mẹ còn, ta không thể nuôi dưỡng thân già. Cha mẹ mất, ta chưa thể dắt dìu thần thức. Chừng hồi tưởng lại thì, nước trời đà cách biệt từ dung, mồ biếc chỉ hắt hiu thu thảo. Như thế, với đời là sự tổn lớn, với đạo lại không ích chi, hai đường đã lỗi, khó tránh tội khiên!
Nghĩ như thế rồi, làm sao chuộc lại? Chỉ có trăm kiếp ngàn đời, tu Bồ Tát hạnh, mười phương ba cõi, độ khắp chúng sanh. Được như vậy, chẳng những cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều đời, đều nhờ độ thoát. Chẳng những cha mẹ một người, mà cha mẹ nhiều người, cũng được siêu thăng. Đây là nhân duyên thứ hai.
3. Vì tưởng ơn Sư trưởng: - Cha mẹ tuy sanh dục sắc thân, nhưng nếu không có thầy thế gian, thì ta chẳng hiểu biết nghĩa nhân. Không có thầy xuất thế, tất ta chẳng am tường Phật pháp. Không biết lễ nghĩa liêm sỉ, nào khác chi loài cầm thú? Không tường nhân quả Phật pháp, đâu khác gì hàng ngu mông? Nay ta biết chút ít lễ nghĩa, hiểu đôi phần Phật pháp là nhờ đâu? Huống nữa, thân giới phẩm đã nhuận phần đức hạnh, áo cà sa thêm rạng vẻ phước điền, thực ra đều do ân Sư trưởng mà được.
Đã biết như thế, nếu ta cầu tiểu quả thì chỉ có thể lợi riêng mình. Nay phải phát đại tâm, mới mong độ các loài hàm thức. Như vậy thầy thế gian mới dự hưởng phần lợi ích, mà thầy xuất thế cũng thỏa mãn vui lòng. Đây là nhân duyên thứ ba.
4. Vì nghĩ ân thí chủ: - Kẻ xuất gia hôm nay, đồ mặc thức ăn, đều nhờ tín thí, thuốc men giường chiếu, cũng của đàn na. Người nhọc sức cấy cày, vẫn còn kém thiếu. Ta ngồi không thọ hưởng, sao nỡ an lòng? Kẻ dệt may gian khổ, chẳng kể đêm hôm. Ta y phục dư thừa, há không mến tiếc? Người nhà lá vách phên, trọn đời bận rộn. Ta nền cao đền rộng, thong thả quanh năm. Đem công cực nhọc để cung cấp cho ta sự an nhàn, lòng nào vui được? Lấy tài lợi riêng để giúp cho ta được no đủ, lý có hợp không?
Thế nên tự nghĩ: Phải vận lòng bi trí, tu phước huệ trang nghiêm để đàn tín được phước duyên, chúng sanh nhờ lợi ích. Bằng chẳng vậy thì chút hạt cơm tấc vải, đền đáp có phần; thân nô dịch súc sanh, nợ nần phải trả. Đây là nhân duyên thứ tư.
5. Vì biết ơn chúng sanh: - Ta cùng chúng sanh từ vô thỉ đến nay, kiếp kiếp đời đời thay đổi làm quyến thuộc, kia đây đều có nghĩa với nhau. Nay dù cách đời đổi thân, hôn mê không nhớ biết, song cứ lý suy ra, chẳng thể không đền đáp.
Vật loại mang lông đội sừng ngày nay, biết đâu ta là con của nó trong kiếp trước? Loài bướm ong trùn dế hiện tại, biết đâu đó là thân sinh tiền thế của mình? Đến như tiếng rên siết trong thành ngạ quỷ, giọng kêu la dưới cõi âm ty, ta tuy không thấy chẳng nghe, họ vẫn van cầu cứu vớt. Ngoài kinh ra, nơi đâu bày tỏ việc này? Không Phật nói, chẳng ai hiểu rành điều ấy! Cho nên Bồ Tát xem ong kiến là cha mẹ quá khứ, nhìn thú cầm là chư Phật vị lai. Thương nẻo khổ lâu dài, hằng lo cứu vớt. Nhớ nghĩa xưa sâu nặng, thường tưởng báo ân. Đây là nhân duyên thứ năm.
(Xin đọc tiếp ở phía dưới)
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
BÀI VĂN KHUYÊN PHÁT LÒNG BỒ ĐỀ (Phần 2)
(THẬT HIỀN ĐẠI SƯ SOẠN)
6. Vì tưởng khổ sanh tử: - Ta cùng chúng sanh, nhiều kiếp đến nay hằng trong vòng sanh tử, chưa từng được thoát ly. Khi ở cõi này, lúc thế giới khác, khi sanh thiên cảnh, lúc sống nhơn gian, siêu đọa phút giây, xuống lên muôn nẻo. Cửa quỷ sớm đi rồi chiều lại; âm ty nay thoát bỗng mai vào. Lên non đao rừng kiếm thân thể đứt rời. Nuốt sắt nóng dầu sôi, ruột gan rã cháy. Khóc than trong lửa, rên siết trong băng. Muôn lần sống chết nội ngày đêm, giây phút khổ đau bằng thế kỷ! Lúc ấy dù biết tội khổ, nhưng ăn năn sao kịp! Khi ra khỏi vội liền quên mất, vẫn tạo tội như thường! Tâm không hằng như lữ khách ruổi giong. Thân chẳng định dường cửa nhà thay đổi. Cát bụi cõi Đại thiên, không tính nổi số thân luân chuyển. Nước đầy trong bốn bể, chẳng nhiều bằng giọt lệ biệt ly! Nếu không lời Phật, việc này ai thấy ai nghe? Ví chẳng xem kinh, lý ấy đâu hay đâu biết? Thảng hoặc luyến mê như trước, chỉ y cứ luân hồi. Rồi ra muôn kiếp nghìn sanh, khó hối một lầm trăm lẫn. Giờ tốt vội qua mà chẳng lại, thân người dễ mất nhưng khó tìm. Âm cảnh mịt mờ, xót nỗi biệt ly dài dặc! Tam đồ ác báo, thương cho thống khổ ai thay?
Vậy phải dứt nguồn sanh tử, cạn bể dục si, độ thoát mình người, đồng lên giác ngạn. Muôn đời siêu hoặc đọa, quan hệ ở phút này, không thể bê trễ được! Đây là nhân duyên thứ sáu.
7. Vì tôn trọng tánh linh: - Tâm tánh của ta cùng Thích Ca Như Lai không hai không khác. Tại sao đức Thích Tôn đã thành chánh giác sáng suốt tự tại, mà ta vẫn còn là phàm phu điên đảo hôn mê? Lại đức Thế Tôn có đủ vô lượng thần thông trí huệ, công đức trang nghiêm. Còn chúng ta thì đầy vô lượng phiền não nghiệp duyên, lụy trần ràng buộc?
Tâm tánh tuy vẫn đồng một, vì mê ngộ nên cách vực trời. Ví như hạt bảo châu vô giá vùi dưới bùn nhơ, người xem dường đất đá. Cho nên phải dùng vô lượng pháp lành, đối trị phiền não, để tánh đức hiển bày. Như bảo châu được rửa sạch lau khô, treo để trên tràng cao, liền phóng quang rực rỡ. Thế mới không uổng công Phật giáo hóa, chẳng phụ tánh linh mình, xứng đáng bậc trượng phu. Đây là nhân duyên thứ bảy.
8. Vì sám hối nghiệp chướng: - Kinh nói: “Phạm một giới nhỏ, phải đọa địa ngục bằng tuổi thọ của Tứ Thiên Vương”. Lỗi nhỏ còn như thế, huống chi tội nặng ư? Chúng ta mỗi ngày, một cử một động thường sai giới luật, lúc ăn lúc uống hằng phạm Thi-la. Tính kỹ trong một ngày cũng đã nhiều tội, huống chi trọn đời, cho đến vô lượng kiếp về trước! Cứ lấy ngũ giới mà xét, thì mười người đã hết chín phạm, ít phát lộ nhiều giấu che. Năm giới còn như thế, huống là giới Sa-di, Tỳ-kheo và Bồ Tát ư?
Nay ta phải phát lòng thương mình, thương người, lệ rơi theo tiếng, thân khẩu thiết tha, cùng với chúng sanh, ai cầu sám hối! Chẳng thế thì ngàn đời muôn kiếp, ác báo khó trừ, làm sao thoát khổ? Đây là nhân duyên thứ tám.
9. Vì cầu sanh Tịnh Độ: - Ở cõi này tu tập, việc tiến đạo khó khăn; về Cực Lạc hành trì, sự thành Phật dễ thuận. Vì dễ thuận, nên một đời liền đắc quả. Bởi khó khăn, nên nhiều kiếp vẫn chưa thành. Cho nên thánh trước hiền sau, người người xu hướng. Ngàn kinh muôn pháp, chỗ chỗ chỉ quy. Sự tu hành giữa thời mạt pháp, thật không chi hơn pháp môn này. Như kinh nói: - Ít căn lành khó được vãng sanh, nhiều phước đức mới về cõi Tịnh. Nhiều phước đức không gì bằng chấp trì danh hiệu. Nhiều căn lành chẳng chi hơn phát ý Bồ đề. Tạm trì Phật hiệu, thắng hơn bố thí trăm năm. Một phát đại tâm, vượt quá tu hành nhiều kiếp. Bởi niệm Phật vẫn mong thành Phật, đại tâm không phát, thì niệm Phật để làm chi? Còn phát tâm vốn để tu hành, Tịnh Độ chẳng cầu, dù phát cũng dễ thối chuyển. Cho nên gieo hạt giống Bồ đề, cày lưỡi cày niệm Phật, đạo quả tự nhiên tăng tiến. Nương chiếc thuyền đại nguyện, vào biển mầu Tịnh Độ, Tây phương quyết định sanh về. Đây là nhân duyên thứ chín.
10. Vì hộ trì chánh pháp: - Đức Thế Tôn ta từ vô lượng kiếp đến nay, vì chúng ta mà tu đạo Bồ đề. Ngài đã làm việc khó làm, nhịn điều khó nhịn, công tròn quả mãn, thành đấng Như Lai. Sau khi thành Phật, duyên giáo hóa đã xong liền vào Niết Bàn. Nay chánh pháp đã qua, tượng pháp đã hết, chỉ còn mạt pháp, có kinh giáo mà không kẻ đắc thành. Thời nay tà chánh chẳng phân, thị phi lẫn lộn, tranh đua nhơn ngã, đeo đuổi lợi danh. Tam Bảo chẳng còn thật nghĩa, suy tàn tồi tệ không nỡ thốt lời. Khi nghĩ đến đây, khó cầm giọt lệ!
Ta là Phật tử, không báo được ân, trong không ích cho mình, ngoài không ích cho người, sống không ích dương thế, chết không ích đời sau. Suy nghĩ như vậy, đau lòng xót dạ, vội phát Bồ đề, nguyện nguyện độ sanh, tâm tâm cầu Phật, thề hết báo thân, sanh về Cực Lạc. Những mong sau khi chứng quả, trở lại Ta Bà, khiến cho Phật nhật rạng soi, pháp môn rộng mở. Tăng hải đẹp thanh nơi cõi trược, nhân dân tu đức ở phương Đông. Kiếp vận nhờ đó mà tiêu trừ, chánh pháp do đây được bền vững. Đây là nhân duyên thứ mười.
Như trên tám cách đã thông, mười duyên đã biết, phát tâm có chỗ, xu hướng có nơi. Trông mong đại chúng, đồng lập đại nguyện, đồng phát đại tâm. Nếu chưa phát thì nay phát, đã phát nên tăng trưởng, đã tăng trưởng khiến tương tục. Chớ thấy khó mà thối khiếp, chớ thấy dễ mà khinh thường. Chớ dục tốc mà chẳng bền lâu, chớ biếng trễ mà không tiến ích. Cũng đừng vì tối dốt mà một mặt vô tâm, đừng vì trí cạn mà tự hiềm vô phận. Ví như trồng cây, trồng lâu thì rễ cạn lần sâu. Lại như mài dao, mài bền thì lưỡi lụt lần bén. Đâu nên vì rễ cạn mà bỏ khô không vun xới, dao lụt mà để luống thành phế hư!
Còn nếu cho tu hành là khổ, tất chưa biết biếng trễ lại càng khổ hơn! Tu hành tuy siêng nhọc nhứt thời, nhưng an vui mãi mãi.
Biếng trễ chỉ tạm nhàn một kiếp, song khổ lụy đời đời. Huống chi dùng Tịnh Độ làm thuyền bè, đâu lo gì thối chuyển? Lại được vô sanh làm sức nhẫn, há còn sợ gian nan? Chớ bảo ý niệm vô thường, nguyện suông vô ích. Phải biết tâm chân thì sự thật. Nguyện rộng tất hạnh sâu. Hư không chẳng rộng lớn bằng nguyện tâm, kim cương không cứng bền bằng nguyện lực.
Đại chúng nếu không chê bỏ lời này, thì xin nguyện cùng làm quyến thuộc Bồ đề, bạn lành Tịnh Độ. Nguyện đồng sanh Cực Lạc, đồng thấy Di Đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh Giác.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
Thật Hiền đại sư, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, người đời Thanh, con nhà họ Thời ở Thường Thục.
Từ thuở bé ngài không ăn cá thịt. Sau khi xuất gia, tham cứu câu “Niệm Phật là ai?” được tỏ ngộ, và nói: “Tôi đã tỉnh giấc mơ!”.
Kế tiếp, Ðại sư đóng cửa thất ba năm ở chùa Chân Tịch, ngày duyệt ba tạng kinh, đêm chuyên trì Phật hiệu. Mãn thất, ngài đến Mậu Sơn lễ xá lợi ở tháp A Dục Vương. Nhằm ngày Phật niết bàn, Ðại sư họp nhiều hàng đạo tục sắm lễ cúng dường, rồi đốt ngón tay trước Phật, phát bốn mươi tám điều đại nguyện. Lúc ấy cảm xá lợi phóng ánh sáng rực rỡ. Ðại sư làm bài văn “Khuyên Phát Lòng Bồ Ðề” để khuyến khích tứ chúng, nhiều người đọc đều rơi lệ.
Lúc lớn tuổi, ngài về trụ trì chùa Tiên Lâm tại Hàng Châu. Năm Ung Chánh thứ bảy, Ðại sư lập Liên Xã, làm văn phát thệ giữa đại chúng, lấy trọn đời tinh tấn tu Tịnh nghiệp làm kỳ hạn. Ngài chia nhật khóa làm hai mươi phần, mười phần trì danh, chín phần quán tưởng, một phần lễ sám. Có nhà tu Thiền hỏi về chỉ thú niệm Phật, Ðại sư dùng lời kệ khai thị rằng:
Một câu A Di Ðà
Là việc đầu công án
Không thương lượng chi khác
Thẳng ngay liền quyết đoán,
Ví như đống lửa lớn
Nhảy vào liền cháy tan
Lại như gươm Thái A
Xông vào liền đứt đoạn
Sáu chữ gồm nhiếp thâu
Tám muôn tư pháp tạng
Một câu giải quyết xong
Ngàn bảy trăm công án
Mặc ai không thích nghe
Ta tự tâm tâm niệm
Xin bất tất nhiều lời
Gắng một lòng không loạn!
Niên hiệu Ung Chánh thứ hai, ngày mùng tám tháng chạp, Ðại sư bảo chúng rằng: “Tháng Tư sang năm ta sẽ đi xa”. Rồi đóng cửa thất, mỗi ngày niệm Phật mười muôn câu. Sang năm, ngày 12 tháng 4, Ðại sư bảo môn đồ rằng: “Từ đầu tháng đến nay, ta đã hai phen thấy Tây phương Tam Thánh, chắc là đến lúc vãng sanh!”. Nói xong, liền làm kệ giã từ đại chúng. Qua hôm sau, Ðại sư không ăn uống, cứ nhắm mắt ngồi thẳng. Ðến canh năm tắm rửa thay y áo. Bữa ấy tức là ngày 14, gần giờ ngọ, Ðại sư lại nhắm mắt day về Tây ngồi yên lặng. Hàng đạo tục các nơi nghe tin hội về đông như chợ. Ðại sư bỗng mở mắt nói: “Tôi về Cực Lạc không bao lâu sẽ trở lại. Thoát ly sống chết là việc lớn, mỗi người nên cố gắng thanh tịnh niệm Phật!”.
Dặn dò xong, chấp tay xướng hồng danh Phật rồi thị tịch, thọ được 49 tuổi.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
Hành Sách đại sư, tự là Triệt Lưu, người đời nhà Thanh, con của Tưởng Toàn Xương, một bậc lão Nho ở vùng Nghi Hưng. Cha ngài là bạn phương ngoại với Ðức Thanh hòa thượng, tức Hám Sơn đại sư.
Niên hiệu Thiên Khải thứ sáu, sau khi Hám Sơn đại sư thị tịch được ba năm, một đêm Tưởng Toàn Xương nằm mộng thấy ngài Hám Sơn vào nhà mình. Cũng trong đêm ấy, Hành Sách đại sư sanh ra, nên nhân đó ngài lại được cha đặt cho ngoại hiệu là Mộng Hám. Ðến khi khôn lớn, cha mẹ kế tiếp qua đời, ngài cảm sự thế vô thường, có ý niệm thoát tục.
Năm hai mươi ba tuổi, ngài thế phát xuất gia với Nhược Am hòa thượng ở chùa Lý An. Tu hành tinh tấn không đặt lưng xuống chiếu trải năm độ nắng mưa, ngài tỏ suốt nguồn chân, ngộ vào pháp tánh. Sau khi Nhược Am hòa thượng thị tịch, Ðại sư trụ trì chùa Báo Ân. Thời gian này, ngài được bạn đồng tham là Tức Am thiền sư khuyên tu Tịnh Ðộ, lại gặp Tiều Thạch pháp sư hướng dẫn duyệt lãm về Thiên Thai Giáo Quán. Kế đó, ngài cùng Tiều Thạch pháp sư đồng nhập thất tu môn Pháp Hoa tam muội. Nhân đây, túc huệ của Ðại sư khai phát, ngộ suốt đến chỗ cốt tủy của Thai Giáo.
Niên hiệu Khang Hy thứ hai, ngài cất am ở núi Pháp Hoa, bên bờ sông Tây Khê tại Hàng Châu, chuyên tu Tịnh Ðộ. Nhân đó lại đặt tên chỗ ở của mình là Liên Phụ Am. Ðến năm Khang Hy thứ chín, Ðại sư trụ trì chùa Phổ Nhân ở Ngư Sơn, đề xướng thành lập Liên Xã. Học giả các nơi hưởng ứng tu tập rất đông. Ngài từng làm bài văn khuyên phát lòng tin chân thật rằng:
- “Phần đông người tu tập xưa nay, đều ưa thích Niệm Phật tam muội. Tuy nói quả cao dễ tu tiến, mà kẻ sau ít được thành công. Ấy bởi do tín nguyện không chuyên, nên chẳng thể đồng về cảnh Tịnh. Nay đã họp nhiều liên hữu, cùng nhau tu tập Tịnh nhân, nếu không xét kỹ chỗ phát tâm, đâu biết rõ lối đường thoát khổ. Ðồng nhơn chúng ta dự vào pháp hội, lòng tin chí nguyện phải thật phải chân. Nếu không chân chính, tuy ăn chay niệm Phật, tu phước phóng sanh, chỉ là người lành thế gian, duy hưởng nhơn thiên phước báu. Lúc hưởng phước vui, dễ bề tạo nghiệp, đã tạo nhiều nghiệp ác, phải đọa khổ luân hồi. Ðiều này dùng chánh nhãn xét xem: chỉ hơn bọn xiển đề một bước! Nếu lòng tin như thế, đâu được gọi là chân? Vậy chân tín là thế nào?
Thứ nhất phải tin: Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba không sai khác. Chúng ta là Phật chưa thành, Di Ðà là Phật đã thành. Giác tánh đồng một vẫn không có hai. Ta tuy điên đảo mê lầm, giác tánh chưa từng mất. Ta tuy nhiều kiếp luân chuyển, giác tánh chưa từng động. Nên nói: Khi một niệm hồi quang đồng về nơi bản đắc là như thế.
Thứ hai phải tin: Chúng ta là Phật danh tự, Di Ðà là Phật cứu cánh, tánh tuy không khác, ngôi cách vực trời. Nếu không chuyên niệm đức Phật kia, cầu về cõi Tịnh; tất phải chịu theo nghiệp lưu chuyển, chịu khổ vô cùng! Ðây gọi là pháp thân lưu chuyển sáu nẻo, không được thành Phật, mà vẫn cam phận chúng sanh.
Thứ ba phải tin: Chúng ta dù nghiệp sâu chướng nặng, sống lâu nơi cảnh khổ, vẫn là chúng sanh trong tâm của Di Ðà. Di Ðà tuy muôn đức trang nghiêm an vui ở cõi Tịnh, cũng là vị Phật trong tâm của chúng ta. Ðã rõ chân tâm vốn không hai, tất biết cảm ứng tự giao tiếp. Như đá nam châm hút sắt, việc này đâu lựa phải nghi? Ðây gọi: nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền hoặc tương lai, quyết định sẽ thấy Phật, cách Phật chẳng xa vậy.
Ðủ lòng tin chân thật như trên, tuy chút phước điểm lành như hạt bụi mảy lông, đều có thể hồi hướng Tây Phương, trang nghiêm Tịnh Ðộ. Huống nữa trì trai giữ giới, bố thí, phóng sanh, đọc tụng Ðại thừa, cúng dường Tam Bảo, tu các hạnh lành, há chẳng đủ làm tư lương Tịnh Ðộ ư? Chỉ e lòng tin chẳng chân thành, mới khiến bị chìm nơi hữu lậu. Cho nên trong việc tịnh tu, không chước chi lạ. Muốn công không luống uổng, quả được tròn nên, thì ngày đêm khi hành đạo, không rời ba điều tin trên mà thôi!”.
Ðại sư thường tổ chức những kỳ đả thất, để khuyến thích đại chúng tinh tấn thêm. Trong các kỳ thất, ngài khai thị đại ý rằng:
- “Bảy ngày trì danh, quý nơi giữ một lòng không loạn, chớ để trần lụy xen vào, không phải niệm mau niệm nhiều là hay. Cách trì danh, cần không hưỡn không gấp, bền bỉ chắc chắn, khiến cho câu Phật hiệu hiện rành rõ nơi tâm. Khi đi đứng nằm ngồi, ăn cơm mặc áo, nên giữ câu hồng danh liên tục chẳng dứt, không tán loạn hôn trầm, dường như hơi thở ra vào nối tiếp. Trì danh như thế gọi là nhứt tâm tinh tấn về phần Sự.
Nếu thể cứu được sâu vào, thì muôn pháp đều như, nguyên không hai tướng. Ðó là chúng sanh cùng Phật, mình cùng người, nhân với quả, y báo với chánh báo, nhơ cùng sạch, khổ cùng vui, ưa với chán, lấy với bỏ, Bồ Ðề cùng phiền não, sanh tử cùng Niết Bàn… các pháp ấy đều không hai, đều đồng một tướng, đồng một thể thanh tịnh. Như thế cứ thể cứu một cách thiết thật, không cần phải gắng gượng an bài. Thể cứu đến lúc cùng cực bỗng nhiên khế hợp với bản tâm. Chừng đó mới biết mặc áo ăn cơm cũng là tam muội, cười đùa giận mắng đều việc độ sanh. Khi ấy nhất tâm hay loạn tâm trọn thành hý luận, ngày đêm sáu thời tìm một mảy tướng khác cũng không thể được. Liễu đạt như thế, mới chân chánh là người học đạo. Và trì danh như thế, gọi là nhứt tâm tinh tấn về phần Lý.
Sự nhứt tâm như trước tợ khó mà dễ. Lý nhứt tâm như sau tợ dễ mà khó. Chỉ nhứt tâm được như trước, quyết chắc dự phần vãng sanh. Nếu kiêm thêm cảnh nhứt tâm sau, tất có thể lên ngôi Thượng phẩm. Nhưng hai thứ nhứt tâm đây, đều là phần việc kẻ bác địa phàm phu, người hữu tâm đều có thể tu học. Khắp khuyên các hàng đạo tục trong Liên Xã, đều phải sách tấn thân tâm. Gần trong bảy ngày, xa suốt một đời, nếu thường tin và tu như thế, thì dù không chứng quả, cũng mạnh nhân sen. Ngày kia gởi chất liên trì, tất không thuộc phẩm Trung hạ vậy”.
Ðại sư trụ trì chùa Phổ Nhân được mười ba năm. Niên hiệu Khang Hy thứ hai mươi mốt, ngày mùng chín tháng bảy, ngài thoát hóa, thọ 55 tuổi. Khi ấy có ông Tôn Hàn bị cấp bịnh tắt hơi, hôm sau bỗng sống lại nói: “Tôi bị Minh ty bắt giam cầm nơi điện Diêm La. Bỗng đâu trong chỗ tối tăm, thấy ánh sáng rực trời, hương hoa đầy khắp hư không. Vua Diêm La quỳ mọp xuống đất, đưa một vị Ðại sư về Tây phương. Tôi thưa hỏi Đại sư nào, được đáp là ngài Triệt Lưu. Nhờ ánh sáng của Ðại sư chiếu đến, tôi mới được tha trở về”. Ðồng ngày ấy có con nhà họ Ngô chết, qua một đêm sống lại, cũng thuật việc mình nghe thấy y như ông Tôn Hàn.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
Trí Húc đại sư tự Ngẫu Ích, người đời Thanh, họ Chung, nhà ở Ngô huyện. Thân phụ thọ trì chú Ðại Bi và Bạch Y, mộng thấy đức Quán Âm đại sĩ trao cho một đứa bé trai mà sanh ra ngài.
Thuở niên thiếu ngài học Nho, từng viết sách bác Phật. Sau nhân xem bộ Trúc Song Tùy Bút Lục của Liên Trì đại sư, liền đốt quyển sách của mình viết. Năm hai mươi tuổi, ngài đọc kinh Ðịa Tạng Bản Nguyện, phát ý xuất trần, mỗi ngày hằng niệm Phật.
Niên hiệu Thiên Khải năm đầu, ngài hai mươi bốn tuổi, sau khi nghe một Pháp sư giảng kinh, bỗng phát nghi tình, dụng công tham cứu. Ít lâu sau được tỏ ngộ, liền đóng cửa nhập thất ở Ngô Giang. Thời kỳ ấy ngài đau nặng, mới quyết chí niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Bịnh vừa bớt, liền kết đàn trì chú Vãng Sanh một thất, đốt ba liều nơi cánh tay, thề phát lòng Bồ Ðề cầu sanh Cực Lạc, để mau chứng đạo quả, sớm độ chúng hữu tình.
Về sau, Ðại sư trụ trì trải qua các nơi: Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch Thành, Thánh Khê, Trường Thủy và Tân An, rộng truyền giáo pháp Thiên Thai và môn Niệm Phật. Thời bấy giờ, những nhà tu Thiền ở các nơi, phần đông cho pháp môn Tịnh Ðộ là quyền giáo; khi gặp người niệm Phật, tất bảo tham cứu chữ Thùy. Riêng Ðại sư lại nhận định pháp Trì Danh chính là tâm tông viên đốn. Có ông Trác Tả Xa, một nhà tu Thiền, đem những huyền lý bên Thiền gạn hỏi Tịnh Ðộ, ngài liền trả lời một cách thỏa đáng. Sau đó, Ðại sư về dưỡng lão ở Linh Phong. Bình thời, Ðại sư từng khai thị rằng:
- Pháp môn Tịnh Ðộ không có chi lạ kỳ đặc biệt, yếu điểm chỉ là tin sâu, nguyện thiết và gắng sức thật hành mà thôi. Phật dạy: “Nếu người nào chuyên niệm A Di Ðà, chính là Vô thượng thâm diệu thiền”. Trí Giả đại sư bảo: “Niệm Phật tam muội là vua trong các môn tam muội”. Tổ Vân Thê cũng nói: “Một câu A Di Ðà Phật bao trùm tám giáo, tròn nhiếp năm tông”. Ðáng tiếc người thời nay xem niệm Phật là cạn cợt tầm thường, bảo đó là công hạnh của hạng ngu phu, ngu phụ. Bởi thế nên lòng tin không chắc, chẳng gắng sức thật hành, trọn ngày lơ là, công phu khó thành tựu. Có kẻ lại lập phương tiện khéo bảo: “Muốn đi sâu vào Niệm Phật tam muội phải tham cứu chữ Thùy”. Họ đâu biết rằng: Một tâm niệm hiện tiền, vốn đã tự rời tứ cú, tuyệt bách phi, chẳng cần phải tác ý rời và tuyệt. Một câu niệm Phật hiện tại, cũng vốn vượt tình lìa kiến, cần chi nói diệu nói huyền? Chỉ quý tin cho chắc, giữ cho vững, rồi buông bỏ hết mà niệm. Hoặc mỗi ngày đêm niệm một muôn, ba muôn, năm muôn, bảy muôn, mười muôn câu, lấy sự nhất định không thiếu làm tiêu chuẩn. Như thế quyết giữ đến suốt đời, thề không biến đổi. Và nếu đúng như thế mà không được vãng sanh, thì chư Phật trong ba đời đều thành vọng ngữ. Một khi được về Cực Lạc, vĩnh viễn không còn thối chuyển, tất cả pháp môn đều lần lượt hiện tiền.
Rất kiêng kỵ kẻ không có chủ trương, nay vầy mai khác. Khi gặp nhà thuyết Giáo, thì muốn tầm chương trích cú, học luật học kinh. Gặp người tu Thiền lại mong tham cứu thoại đầu, theo cơ phong chuyển ngữ. Gặp bậc trì Luật, thì ưa thích ôm bát khất thực, tu hạnh đầu đà. Thế nên sự sự không rồi, điều điều chẳng trọn. Ðâu biết rằng khi câu Phật hiệu niệm được thuần thục, thì ba tạng, mười hai phần kinh gồm ở trong đó; một ngàn bảy trăm công án, cơ quan hướng thượng đều ở trong đó; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, tam tụ tịnh giới cũng ở trong đó.
Người chân thật niệm Phật, buông bỏ cả thân tâm thế giới là đại Bố thí. Niệm Phật không khởi tham sân si là đại Trì giới. Niệm Phật không quản nhơn ngã thị phi là đại Nhẫn nhục. Niệm Phật không gián đoạn, không tạp vọng là đại Tinh tấn. Niệm Phật không còn vọng tưởng thô tế là đại Thiền định. Niệm Phật không bị các pháp khác mê hoặc cuốn lôi là đại Trí huệ. Thử kiểm điểm lấy mình, nếu chưa quên thân tâm thế giới, chưa dứt niệm tham sân si, chưa tuyệt lòng thị phi nhơn ngã, chưa hết gián đoạn tạp vọng, chưa trừ vọng tưởng bông lông, chưa khỏi bị pháp khác cuốn lôi mê hoặc, thì chưa phải là người chân thật niệm Phật.
Nếu muốn đến cảnh giới Nhất tâm bất loạn, cũng không có cách gì lạ. Khi mới tập niệm, dùng chuỗi ký số rành rẽ, và khắc định thời khóa đừng để cho thiếu sót. Như thế lâu ngày, công phu tự thuần thục, không niệm mà vẫn tự niệm. Chừng đó, muốn ký số hay không ký số cũng được. Nếu bước đầu vội muốn lộ vẻ mình hay giỏi, muốn tỏ ra không trước tướng, muốn học lối viên dung tự tại, rốt niệm lực khó thành. Ðây tổng yếu bởi tin chưa sâu, thực hành chưa hết sức. Người như thế, dù cho giảng thông thuộc ba tạng mười hai phần kinh, thấu suốt một ngàn bảy trăm công án, cũng đều là việc bên bờ sống chết luân hồi mà thôi. Kẻ ấy đến lúc lâm chung, quyết định không dùng chi được! ...
Năm Thuận Trị thứ hai, vào cuối Ðông, Ðại sư cảm bịnh nhẹ, ngài di chúc mọi việc và dặn các đệ tử, sau khi trà tỳ, phải tán nhuyễn xương trộn với bột hòa thành viên, chia thí cho loài cá chim để kết duyên Tịnh Ðộ với chúng. Sang đầu năm, ngày 21 tháng giêng, Ðại sư sáng dậy sớm, sắc diện tươi khỏe như người không bịnh. Ðến đúng ngọ, ngài đoan tọa trên giường, xây mặt về Tây, chấp tay niệm Phật mà tịch, thọ được 57 tuổi.
Ba năm sau, các môn nhơn hội lại, định y pháp làm lễ trà tỳ. Lúc mở bảo tháp ra, thấy toàn thân Ðại sư vẫn còn nguyên vẹn, tóc ra dài phủ hai tai, sắc mặt tươi tỉnh như sống. Ðại chúng không nỡ tuân lời di chúc, xây tháp thờ toàn thân ở chùa Linh Phong.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
Châu Hoằng đại sư, tự Phật Huệ, hiệu Liên Trì, người đời Minh, con nhà họ Trầm, ở xứ Nhan Hòa tại Hàng Châu. Năm mười bảy tuổi ngài đã được bổ làm Giáo thọ, nổi tiếng là người học hạnh kiêm toàn.
Láng giềng có bà lão, mỗi ngày niệm Phật vài ngàn câu, lấy làm thường khóa. Nhân lúc rỗi rảnh sang chơi, ngài hỏi duyên cớ, bà đáp: “Ông nhà tôi lúc sanh tiền chuyên lo niệm Phật, đến khi sắp chết không đau bịnh chi, vui vẻ vòng tay cáo từ mọi người mà qua đời. Do đó, tôi biết công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn!”. Ngài nghe nói cảm động, từ đó hằng để ý đến pháp môn Tịnh Ðộ. Lại viết bốn chữ: “Sống chết việc lớn” dán nơi vách đầu bàn để tự răn nhắc.
Năm ba mươi hai tuổi, ngài xuất gia, rồi đi tham phỏng các bậc danh đức. Sau cùng đến học đạo với Tiếu Nham Nguyệt Tâm thiền sư, tham câu “Niệm Phật là ai?”. Một hôm, đang khi tham cứu bỗng chợt tỉnh ngộ, làm bài kệ rằng:
Hai chục năm qua việc đáng nghi
Ngoài ba ngàn dặm gặp sao kỳ!
Ðốt hương, liệng kích dường như mộng
Ma, Phật, tranh suông thị lẫn phi!
Niên hiệu Long Khánh thứ năm, Ðại sư đi khất thực ngang qua đỉnh Vân Thê, thấy cảnh nước non cực kỳ u nhã, quyết ý cất am ở tu. Trong núi ấy có nhiều cọp, ngài hành phép Du Già thí thực, từ đó các loài thú dữ không còn khuấy hại nữa. Mấy năm sau, gặp lúc nắng hạn lâu, cư dân quanh vùng đến am cầu xin đảo võ. Ngài đáp: “Tôi chỉ biết niệm Phật, không có tài chi khác!”. Mọi người vẫn nài nỉ cố thỉnh. Ðại sư cảm lòng thành của dân chúng, ra thảo am gõ mõ đi dọc theo bờ ruộng mà niệm Phật. Bước chân của ngài đi đến đâu, mưa lớn rơi theo đến đó. Nhân dân vui mừng kính đức, cùng nhau hiệp sức xây cất điện chùa. Tăng chúng các nơi lần lượt nương về, không bao lâu chỗ ấy thành cảnh đại tòng lâm trang nghiêm thanh tịnh.
Ðại sư tuy đã tỏ thiền cơ, nhưng xét thấy căn lực người thời Mạt pháp kém yếu, kẻ nói lý thì nhiều song ngộ lý thật rất ít. Vì muốn lợi mình và người, nên ngài chủ trương Tịnh Ðộ, cực lực bác bỏ cuồng thiền. Bộ Phật Thuyết A Di Ðà Kinh Sớ Sao do ngài trứ tác, dung hòa cả sự lý, gồm nhiếp khắp ba căn, lời dẫn giải rất là uyên áo. Về trước, các bậc Tôn đức trong Phật giáo, tuy hoằng truyền Tịnh Ðộ, nhưng vẫn không bỏ Thiền tông. Ðến phiên Ðại sư là người được chánh truyền tâm ấn từ ngài Tiếu Nham thuộc dòng Lâm Tế, lại chỉ hoằng dương Tịnh Ðộ. Vì thế, các nhà thiền học đương thời rất không bằng lòng. Ông Tào Lổ Xuyên, một vị học Phật, hai phen gởi thơ đến Vân Thê gạn hỏi. Ngài cũng hai phen phúc đáp, mà vài đoạn có liên quan đến Tịnh Ðộ, sẽ được trích thuật ở phần sau.
Ðại sư bình thời cũng tu các công đức để phụ trợ Tịnh nghiệp, như truyền giới pháp, khai những ao phóng sanh. Ngài lại thẩm định nghi Thủy Lục, hành Du Già Diệm Khẩu để cứu khổ u minh, truyền bá văn giới sát, khiến người quy hóa làm lành rất nhiều.
Năm Vạn Lịch thứ bốn mươi, cuối tháng sáu, Ðại sư vào thành từ biệt các đệ tử và những người cố cựu, nói: “Tôi sắp đi nơi khác!”. Rồi ngài trở về chùa thiết tiệc trà từ giã đại chúng. Mọi người không hiểu là duyên cớ gì. Ðến chiều mùng một tháng bảy, ngài vào Tăng đường bảo: “Mai này tôi sẽ đi”.
Qua chiều hôm sau, Ðại sư kêu mệt rồi vào tư thất ngồi kiết già nhắm mắt. Chư Tăng, các đệ tử tại gia và những người cố cựu trong thành đều hội đến. Ngài mở mắt ra nhìn mọi người nói: “Các vị nên chân thật niệm Phật, đừng làm điều chi khác lạ, và chớ phá hoại quy củ của tôi”. Nói xong, hướng về Tây chấp tay niệm Phật mà qua đời. Thọ được tám mươi mốt tuổi.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
PHỤ VẤN ÐÁP (Châu Hoằng Liên Trì Đại Sư)
(Lược trích)
Thơ hỏi: - Kẻ hèn này từ lâu giữ miền Ðông Lỗ, đối với các kinh điển Nho và Phật, đã làm con mọt sách từ bốn mươi năm qua. Lại thường phụng giáo với những hàng thức giả, cũng uẩn súc được một đôi phần. Nay nhân sư Ðoạn Phàm đến Vân Thê, xin gởi mấy lời để mong sự hiệu chính nơi ngài là bậc thiện tri thức.
1. Trong Phật pháp có ba tạng, mười hai phần giáo, đức Thế Tôn khi xưa đã giăng nhiều thứ lưới nơi bể sanh tử sâu rộng, để tùy phần vớt các loài cá nhơn thiên lớn nhỏ đưa lên bờ Niết Bàn. Nhưng nên nói lớn để gồm nhỏ, đâu thể cử một mà bỏ nhiều! Gần đây, tôi nghe có kẻ bảo: Nhiều kiếp thành Phật, tất là Tiệm chớ không phải Ðốn. Vả Tiệm giáo cũng là Phật dạy, chưa từng không đúng, song dùng Tiệm để bỏ Ðốn giáo, phải chăng thật đã sai lầm?
Tôn giả bên trong ẩn giấu sự tỏ ngộ đốn viên, ngoài thì hiển bày pháp môn Tịnh Ðộ. Việc này chư Phật cũng có như thế, không đủ để hiềm nghi. Nhưng học chúng của ngài lại chỉ trọng một đức A Di Ðà mà bỏ hết mười lăm vị Vương tử, muốn tôn một kinh Tịnh Ðộ mà bỏ hết ba tạng mười hai phần kinh. Ðó là điều kẻ hèn này không muốn nghe! Hiện nay tuy nhằm thời Mạt pháp, song con người há chỉ có độn tánh mà không lợi căn? Như đức Thích Tôn vì Ca Diếp, Kiều Trần Như thì nói pháp này; vì Thiện Tài, Long Nữ lại nói pháp khác. Chỗ thuyết giáo của Phật tùy cơ biến đổi, thật tròn trặn như trên mặt nước lăn trái hồ lô, nếu như cắm cọc đóng đinh, giữ cây chờ thỏ, làm sao lợi ích hàng nhơn thiên được? Rất mong Tôn giả tùy cơ thuyết pháp, khi gặp hàng lợi căn nên vì nói thượng thừa, để họ ngộ lý viên dung không còn thiên trệ khiến cho đại bàng cùng chim én đều được thích nghe. Như thế há chẳng là điều rất lành rất tốt ư?
2. Kinh Hoa Nghiêm là Nhứt thừa viên giáo, là vua trong các kinh. Trong bộ Di Ðà Sớ Sao, Tôn giả lại đem kinh Di Ðà sánh với Hoa Nghiêm, điểm ấy tợ hồ chưa thỏa đáng. Ðã thế, có người lại còn nhân đó mà làm luận đưa cao Tịnh Ðộ, đè nén Hoa Nghiêm, khiến cho màu tím sắc chu thành ra lẫn lộn! Mong Tôn giả vì căn Tịnh Ðộ nói Tịnh Ðộ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm, đừng chê nhau cũng chớ lạm nhau, mới thật là lưu thông Phật pháp.
Thơ đáp: - Tiếp được tờ mây, biết cư sĩ đại lượng bao la, muốn đem hết chúng sanh trong pháp giới đưa vào biển tánh Nhứt thừa. Ðó là nguyện lớn của đức Phổ Hiền, riêng lòng thật lấy làm kính ngưỡng!
1. Theo lời cư sĩ bảo: Tôi nên tùy cơ diễn giáo, đó là ý kiến rất hay! Nhưng tùy muôn cơ mà dẫn dạy, đó là việc của chư Phật ra đời. Ðiều ấy kẻ hèn này chưa làm được. Như khi xưa Lục Tổ ở Tào Khê chuyên dạy môn thiền Trực Chỉ, đâu phải ngài không thông các giáo pháp khác? Và như Viễn Công ở Lô Sơn riêng mở Bạch Liên Xã, gồm các bậc cao Tăng danh sĩ, há chỉ tiếp độ kẻ độn căn? Ðến như năm tông: Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Ðộng, Quy Ngưỡng, Lâm Tế, tuy đồng ra một nguồn, nhưng sự tiếp độ của mỗi tông đều có phần sai khác. Những điều trên là sự thi thiết riêng của chi phái môn đình, đó cũng là lẽ tất nhiên, chẳng lấy chi làm lạ! Chư Tổ sư khi xưa đều như thế, huống nữa là kẻ phàm thường này ư? Nếu không tự lượng bắt chước theo Phật, nay nói pháp này, mai diễn pháp khác, thì thành ra mờ mịt chẳng có sư thừa. Ðó tuy nói là lợi người, kỳ thật làm cho người lầm lạc. Tại sao thế? Bởi Phật là đấng Pháp Vương, đối với các pháp đều tự tại. Còn kẻ dân thường mà tiếm xưng Thiên tử là điều nguy hiểm, há chẳng nên kiêng dè ư?
2. Kinh Hoa Nghiêm đúng là Nhứt thừa Viên giáo, gồm vô lượng môn; cầu sanh Tịnh Ðộ là một trong vô lượng môn của Hoa Nghiêm. Theo căn cơ thời nay, nên do một Tịnh Ðộ mà vào Hoa Nghiêm, không phải nêu Tịnh Ðộ mà bỏ Hoa Nghiêm. Cư sĩ bảo do tôi đem kinh Di Ðà sánh với Hoa Nghiêm, nên mới có kẻ làm luận đưa cao Tịnh Ðộ, đè nén Hoa Nghiêm. Xin hỏi bộ luận ấy ở đâu, do ai trứ tác? Nhưng tôi cũng chưa từng đem kinh Di Ðà sánh ngang với Hoa Nghiêm. Trong văn Sớ Sao của tôi chỉ nói: “Kinh Hoa Nghiêm cực viên, kinh Di Ðà được một ít phần viên”. Ðó là bảo kinh Di Ðà chỉ thuộc một phần pháp quyến của Hoa Nghiêm, có chi gọi rằng đồng bậc? Vả lại khi nói Hoa Nghiêm, đã gồm Tịnh Ðộ và nói Tịnh Ðộ cũng thông với Hoa Nghiêm. Thế thì kẻ diễn Hoa Nghiêm tự nói Hoa Nghiêm, người nói Tịnh Ðộ tự diễn Tịnh Ðộ, vẫn đồng hành mà không trái nhau. Người thời nay chỉ biết Hoa Nghiêm rộng hơn Cực Lạc, song không rõ đức Di Ðà chính là Phật Giá Na. Ngài Long Thọ, truyền bá kinh Hoa Nghiêm mà nguyện sanh Cực Lạc. Ðức Văn Thù, Phổ Hiền đồng phụ tá Phật Tỳ Lô Giá Na, hiệu là Hoa Nghiêm Tam Thánh, cũng phát nguyện về cõi Liên bang. Cư sĩ khuyên tôi vì căn Tịnh Ðộ nói Tịnh Ðộ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm. Xin hỏi các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ là bậc người nào? Những vị Bồ Tát ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, là căn Tịnh Ðộ hay Hoa Nghiêm? Cư sĩ lâu nay vẫn truyền dương kinh Hoa Nghiêm, mà trái với đức Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ, là điều tôi chưa hiểu nổi!
Thật ra, cư sĩ với tôi đều là bạn lành trong Hoa Tạng thế giới. Nay lão hủ lại muốn mời cư sĩ cùng làm huynh đệ ở Liên bang. Mong cư sĩ xét suy, đừng xem tôi là người bên ngoài vậy.
PHỤ VẤN ĐÁP (Châu Hoằng Liên Trì Đại Sư) (tiếp theo)
Thơ hỏi: - Ðại đức Ðoạn Phàm có đem thơ phúc đáp của Tôn giả. Duyệt xem, thấy lời và ý ân cần, thật rất cảm lòng chiếu cố! Nhưng nỗi riêng chưa tỏ hết, còn xin có mấy điểm trình bày:
1. Kinh Pháp Hoa, trong phần khen công đức thọ trì có dẫn: “Nếu người nữ nào thọ trì phẩm này sẽ thoát hẳn nữ thân, sanh về Cực Lạc”. Như thế sự vãng sanh Tịnh Ðộ, phải chăng là nhân quả của nữ nhơn? Lại nữa, kinh Lăng Nghiêm, trong phần tuyển lựa viên thông, đức Văn Thù đã bác môn niệm Phật của ngài Thế Chí là vô thường, sanh diệt. Vậy ý Tôn giả nghĩ như thế nào?
2. Tề Kỷ thiền sư, khi các học giả đọc đến hai câu kệ của ngài Thiện Ðạo: “Duy có đường tắt tu hành. Chỉ niệm A Di Ðà Phật”, đã quát to: “Vẫn còn quanh lối cũ, niệm được cái gì?”. Thiền sư lại bảo: “Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A Di Ðà Phật!”. Lời của một bậc ngộ đạo nói như vậy, há không có ý vị ư?
3. Bởi thế bậc thức đạt đã bảo: “Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành không bằng một niệm ngộ Vô sanh pháp nhẫn”. Người trí cần phải vượt khỏi môn quyền học Tam thừa, không còn ngã và ngã sở. Nay sự vãng sanh Tịnh Ðộ, ta là người hay sanh, Cực Lạc là chỗ sanh về, thì năng, sở, người cảnh còn phân biệt rõ ràng, đâu gọi là cứu cánh?
4. Nếu như nói: “Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh”, đây tất phải đợi sau khi vãng sanh thấy đức Di Ðà mới được ngộ đạo, phải chăng là quá chậm trễ xa vời?
5. Trong thơ trước, tôi đã khuyên Tôn giả “Vì căn Tịnh Ðộ nói Tịnh Ðộ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm”, thật đã vì ngài mà tỏ bày hết tâm não. Tôn giả lại không lưu ý, nên vừa rồi thính chúng nơi pháp hội của ngài từ Hàng Châu sang đất Tô, vị nào cũng nôn nao cầu về chín phẩm. Nhân khi cùng nói chuyện, tôi vừa đề cập đến Thượng thừa thì họ đều sửng mắt kinh lòng! Ðó là lỗi của thầy, hay của hàng đệ tử? Ðấng đại trượng phu khí lượng phải xung thiên, nay ngài đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa, sao không đủ tác lược của bậc đại nhơn, mà chỉ bắt chước hành động những ông già bà cả ăn chay ở đầu làng ngõ xóm? Nếu một mai bị bậc lanh lợi thông suốt hỏi đến, sẽ toan ẩn mình trên sao Bắc Ðẩu, hay chui thân vào núi Thiết Vi ư?
6. Thế thì việc Tôn giả muốn vời tôi cùng làm bạn sen nơi Cực Lạc, khác nào bảo kẻ này gánh gai bỏ vàng, đuổi theo vật mà chạy vào mê lộ? Há chẳng nghe nói: Nếu là chim Đại bàng kim súy, mới giương cánh đã vượt cao chín tầng mây; ngựa Nhiếp ảnh thần câu, vừa cất vó đã lướt ra ngoài vạn dặm. Hạng này không còn theo lớp mà ăn uống, cũng không tùy tiện chịu vùi thân. Người xưa bảo: “Nếu muốn cứu cánh việc ấy, phải đứng trên chót vót đỉnh non cao, đi sâu tận lòng đáy biển thẳm. Như chưa bỏ được sự êm ấm của khuê phòng, thì có chỗ nào dùng được!”.
Cho nên, Phật pháp là việc lớn, không phải phàm thường. Mong ngài nghĩ lại!
Thơ đáp: - Mấy điều huệ cố của cư sĩ, lời hay lẽ diệu, luận biện điệp trùng, thật là đáng ngợi khen, đáng ngưỡng vọng. Nhưng trộm nghĩ: “Lòng thương tôi tuy sâu, song tiếc đã lắm lời phí uổng!”.
Nếu cư sĩ quả muốn tuyên dương Thiền tông, ức chế Tịnh Ðộ, thì không cần nói chi nhiều. Sao chẳng bảo: “Chư Phật trong ba đời bị miệng ta nuốt mất hết cả. Một đức Phật còn chẳng lập, có ai là A Di Ðà?”. Lại sao không bảo: “Nếu người biết được tâm, đại địa không tấc đất. Một tấc đất đã không, nơi nào là cõi Cực Lạc?”. Chỉ dùng hai lời ấy thôi, đủ gồm nhiếp hết những điều cư sĩ muốn nói. Nay nghĩ nếu mỗi mỗi đều thù đáp, e phạm lỗi đấu tranh. Nếu hẳn không trả lời, vì đạo pháp có tương quan, lại chẳng thể im lặng. Vậy xin tỏ bày ước lược như sau:
1. Cư sĩ dẫn kinh Pháp Hoa, nói sự vãng sanh Tịnh Ðộ là nhân quả của người nữ. Thế thì việc Long Nữ thành Phật, cũng là nhân quả của người nữ ư? Lại dẫn kinh Lăng Nghiêm nói: Ðức Văn Thù bác niệm Phật là vô thường, sanh diệt, không viên thông. Thế tại sao ngài Kiều Trần Như tỏ ngộ hai chữ KHÁCH TRẦN có thể gọi là suốt lý vô thường, hợp lẽ bất sanh diệt, lại chẳng được chọn là pháp viên thông? Nếu quả thật: Ðức Quán Âm đỗ cao, ngài Thế Chí thi rớt, thì sao cư sĩ chẳng nghe biết điều thí dụ: “Cửa rồng chạm trán” là lời của kẻ quê mùa miền Ðông dã ở nước Tề?
2. Về những điều của Tề Kỷ thiền sư bảo, cư sĩ đã học Thiền, sao chẳng biết đó là các nhà tông sư vì người cởi chấp mở trói, ý ở ngoài lời, lại cứ theo văn tự hiểu thành sự thật, mà chịu chết dưới câu nói như thế? Nếu quả vậy, thì cổ đức bảo: “Ðạp trên đỉnh đầu Phật Tỳ Lô mà đi”, cũng là đạp thật sự hay sao? Những cơ phong ấy trong các Ngữ lục có đến ngàn muôn ức. Lão hủ bốn mươi năm về trước cũng đã từng dùng đến để cho lời nói cao siêu xuất cách, câu văn mạnh mẽ hùng hào. Về sau xét lại biết hổ thẹn, không còn dám theo lề lối cũ, nay chợt nghĩ đến hãy còn đỏ mặt. Như Tề Kỷ thiền sư nói: “Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A Di Ðà Phật!”. Xin cũng dùng chuyển ngữ đối đáp: “Nay chính thật như con nhớ mẹ, trở lại quê xưa, vui thay A Di Ðà Phật!”. Thử đem cân lường câu nói này với lời ngài Tề Kỷ, xem bên nào ít nhiều nặng nhẹ, và có bao khoảng cách xa?
3. Trong thơ lại dẫn lời cổ nhơn bảo: “Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành, không bằng một niệm ngộ Vô sanh pháp nhẫn”. Xin hỏi: “Cư sĩ đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn chưa?”. Nếu chứng được thì không nên cho rằng: Ta là người hay sanh, Tịnh Ðộ là chỗ sanh về. Tại sao? Bởi tâm tức là cảnh, ai là người hay sanh? Cảnh tức là tâm, đâu là chỗ được sanh? Vì không còn thấy năng sở, nên tuy vãng sanh mà chưa từng có sanh. Ðó mới thật là chân vô sanh. Nếu cho không sanh về đâu mới là vô sanh, thì thành ra lỗi đoạn diệt, thiên không vậy.
4. Cư sĩ bảo: Nếu đợi hoa nở thấy Phật mới ngộ vô sanh là chậm trễ xa vời. Kẻ hiểu Thiền tông sao chẳng biết: từ mê được ngộ như giấc chiêm bao dài mới thức tỉnh? Người niệm Phật tùy theo căn cơ, có vị trong hiện đời đã kiến tánh. Ðó là hoa sen nở trong giây phút. Có kẻ sau khi vãng sanh mới kiến tánh. Ðó là hoa nở về lâu. Bởi căn cơ có sáng tối, công phu có trễ siêng, nên hoa nở mới có sớm muộn, đâu được nhất khái cho là sai chậm ư?
5. Trong thơ còn đề cập đến mấy vị Tăng ở núi hoang nào đó, khi hỏi tới Thượng thừa thì đều sửng mắt kinh lòng! Cư sĩ khuyên tôi với căn Hoa Nghiêm thì nói Hoa Nghiêm, với cơ Tịnh Ðộ thì đàm Tịnh Ðộ. Nay những kẻ ấy thuộc về hàng độn căn, chính nên giảng Tịnh Ðộ, sao cư sĩ không tùy bịnh cho thuốc, lại luận Thượng thừa với họ làm chi?
Cư sĩ lại bảo tôi đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa, mà không đủ tác lược của bậc đại nhơn. Lão hủ chưa từng dám đương với danh dự ra ứng thế, nên tự ưng không có tác lược của bậc đại nhơn. Ðiều này hãy tạm gác qua, không cần bàn luận. Nhưng nếu bỉ người tu Tịnh Ðộ là hạng ông già bà cả ăn chay quê mùa, thật ra không phải chê các vị đó đâu, mà chính là bỉ đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ vậy! Ðâu riêng gì những vị Bồ Tát ấy, mà chư Tổ như Huệ Viễn, Thiện Ðạo, Thiên Thai, Vĩnh Minh, chư đại thiện tri thức, các hàng danh nhơn niệm Phật, theo cư sĩ, cũng là hạng quê mùa cả ư? Song hạng quê mùa nếu niệm Phật được vãng sanh, sẽ lên ngôi Bất thối chuyển, cũng đâu nên xem rẻ khinh chê? Những ông già bà cả ăn chay niệm Phật, cũng đáng khen là họ biết giữ theo quy củ quê mùa của chính mình. Còn hạng thông minh tài biện, ăn thịt uống rượu, vọng nói Bát Nhã, hôm sớm cứ tìm chư Tăng gạn thiền nói đạo thì thế nào?
Ðến như việc các ông già bà cả khi bị kẻ lanh lợi thông suốt hỏi đến, thì chẳng cần lên sao Bắc Ðẩu, vào núi Thiết Vi làm chi cho cao xa. Họ chỉ cần đặt giường nằm nơi cổ họng, trải tòa ngồi trên đôi mắt của các vị lanh lợi thông suốt ấy. Làm như thế để chi? Ðể dạy chúng hãy tạm đóng môn tam muội nơi cửa miệng, biết nhắm mắt hồi quang phản chiếu xét trở lại chính mình đó thôi!
6. Cư sĩ cho rằng việc khuyên niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ là điên đảo, đuổi theo vật vào mê lộ, là gánh gai bỏ vàng, làm khuất nhục đến mình. Nhưng các thí dụ ấy còn chưa thân thiết. Nay lão hủ xin đem một thí dụ khác thay thế:
Có một lão nông chân thật gởi thiếp vào cửa vị phú trưởng giả, mời đến nhà ở đồng ruộng của mình viếng cảnh. Mọi người nghe nói đều cười. Lão nông lại quét dọn đường sá sạch sẽ, đến mời thỉnh lần nữa. Người gác cửa nhà phú trưởng giả cười bảo: “Chủ nhơn lần trước không quở trách ông là may lắm rồi. Ông định làm mặt dày hay sao?”. Lão nông đáp: “Tôi thấy trong các nhà giàu, có kẻ làm giàu mà bất nhơn. Có người ngoài giàu nhưng trong nghèo. Có kẻ chưa giàu song tỏ ra kiêu mạn trước. Có người chỉ giữ kho, giữ sổ sách ở nhà giàu, mà tự cho là mình giàu. Vả lại cảnh giàu sang như Kim cốc, My ô, nay còn đâu ư? Tôi là một lão già ở đồng ruộng, an hưởng sự vui thái bình, nên quên phận thấp kém của mình, mới thương xót mà mời thỉnh. Thôi từ nay cũng xin tự biết lỗi rồi!”. Nói xong cùng nhau cười rộ mà chia tay.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
Tỉnh Thường đại sư, tự Thứu Vi, người đời Tống, con nhà họ Nhan ở Tiền Ðường. Khi lên bảy, ngài gặp duyên lành xuất gia và mới mười bảy tuổi đã thọ giới Cụ túc.
Trong niên hiệu Thuần Hóa, Ðại sư đến trụ trì chùa Chiêu Khánh. Vì mến di phong của Lô Sơn, ngài tạo tượng Phật A Di Ðà, kết hợp bạn sen, thành lập Liên Xã. Sau đó, ngài lại chích máu tả phẩm Tịnh Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm. Do nhân duyên ấy lại đổi tên Liên Xã thành Tịnh Hạnh Xã. Hàng sĩ phu dự vào hội niệm Phật được một trăm hai mươi người. Ngoài ra các hàng nam nữ thiện tín khác có đến hàng vạn, đều xưng là Tịnh Hạnh đệ tử. Trong đây quan Tướng quốc Vương Văn Ðán làm hội thủ. Riêng phần Tỳ kheo Tăng, Ðại sư độ được hơn một ngàn người, đều tu môn niệm Phật.
Năm Thiên Hy thứ tư, ngày 12 tháng giêng, theo thường khóa Ðại sư ngồi kiết già niệm Phật. Giây lát, bỗng nói to lên rằng: “Ðức A Di Ðà Thế Tôn đã đến!”. Rồi ngồi yên mà hóa, thọ 62 tuổi.
Trong giờ ngài thị tịch, đại chúng thấy mặt đất biến thành sắc vàng ròng, rất lâu mới hoàn phục như cũ.
Lời phụ:
Kinh dạy: “Tâm tịnh thì cõi Phật thanh tịnh”. Ðại sư đã tu nhân niệm Phật thanh tịnh, tất phải cảm tịnh quả. Nhưng vì tịnh quả quá mãnh liệt nên không đợi sanh về Tây phương mà ảnh hưởng đến cảnh uế địa này tạm biến thành sắc hoàng kim. Ðây là một bằng chứng cho biết cảnh đất vàng cây báu ở Tịnh Ðộ là có thật, vì “tất cả pháp do tâm tạo”.
Quả vị của Ðại sư tất ở ngôi Thượng Thượng Phẩm.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
Diên Thọ đại sư, tự Xung Huyền, người đời Tống, con của họ Vương ở Tiền Ðường. Lúc thiếu thời, ngài thích tụng kinh Pháp Hoa, cảm đến bầy dê quỳ mọp nghe kinh.
Lớn lên, Xung Huyền được Văn Mục Vương tuyển dụng, cho làm quan trông nom về thuế vụ. Nhiều lần ngài lấy tiền công quỹ đến Tây Hồ mua cá trạnh phóng sanh. Việc phát giác ra, bị Pháp ty thẩm định, xử ngài vào tội tử hình. Lúc sắp đem đi chém, Văn Mục Vương bí mật cho người rình xem, nếu thấy ngài nhan sắc thản nhiên, không tỏ vẻ buồn rầu lo sợ, thì phải đem về trình lại. Thấy ngài trước sau vẫn an điềm, Sứ giả trao sắc chỉ cho quan Giám trảm, rồi dẫn về diện kiến vua. Khi Vương hỏi duyên cớ, ngài đáp: “Tôi tư dụng của công, thật đáng tội chết. Nhưng toàn số tiền đó, tôi dùng mua cứu được muôn ức sanh mạng, thì dù thân này có chết, cũng được vãng sanh về cõi Liên bang, vì thế nên tôi không lo sợ”. Văn Mục Vương nghe qua cảm động, ra lịnh tha bổng. Ngài xin xuất gia, Vương bằng lòng.
Sau đó, ngài đến quy đầu với Thúy Nham thiền sư ở Tứ Minh. Kế lại tham học với Thiều quốc sư ở Thiên Thai, tỏ ngộ tâm yếu, được Quốc sư ấn khả. Ngài từng tu Pháp Hoa Sám ở chùa Quốc Thanh. Trong lúc thiền quán, thấy đức Quán Thế Âm Bồ Tát rưới nước cam lồ vào miệng, từ đó được biện tài vô ngại. Do túc nguyện muốn chuyên chú về Thiền hoặc Tịnh mà chưa quyết định, ngài đến thiền viện của Trí Giả đại sư làm hai lá thăm: một lá đề “Nhất tâm Thiền Định”, còn lá kia là “Trang nghiêm Tịnh Ðộ”. Kế lại chí tâm đảnh lễ Tam Bảo sám hối, cầu xin gia bị. Ðến khi rút thăm, luôn bảy lần đều nhằm lá “Trang nghiêm Tịnh Ðộ”. Từ đây ngài nhứt ý tu về Tịnh nghiệp.
Năm Kiến Long thứ hai đời Tống, Trung Ý Vương thỉnh ngài trụ trì chùa Vĩnh Minh, tôn hiệu là Trí Giác thiền sư. Ngài ở đây trước sau mười lăm năm, độ được một ngàn bảy trăm vị Tăng. Ðại sư lập công khóa, mỗi ngày đêm hành trì một trăm lẻ tám điều. Và hai điều đặc biệt trong đó, là tụng một bộ kinh Pháp Hoa, niệm mười muôn câu Phật hiệu. Ban đêm khi ngài qua gộp núi khác niệm Phật, những người ở gần nghe tiếng loa pháp cùng thiên nhạc trầm bổng du dương. Về kinh Pháp Hoa, trọn đời ngài tụng được một muôn ba ngàn bộ. Ðại sư thường truyền giới Bồ Tát, mua chim cá phóng sanh, thí thực cho quỷ thần, tất cả công đức đều hồi hướng về Tịnh Ðộ. Ngài có trứ tác một trăm quyển Tông Cảnh Lục, hội chỉ thú dị đồng của ba tông: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Duy Thức.
Ðại sư lại soạn ra tập Vạn Thiện Ðồng Quy. Trong đây lời lẽ chỉ dạy về Tịnh Ðộ rất thiết yếu, đại lược như sau:
Hỏi: - Cảnh duy tâm Tịnh Ðộ đầy khắp mười phương sao không hướng nhập, mà lại khởi lòng thủ xả, cầu về Cực Lạc gởi chất ở đài sen. Như thế đâu hợp với lý vô sanh, và đã có tâm chán uế ưa tịnh thì đâu thành bình đẳng?
Ðáp: - Sanh duy tâm Tịnh Ðộ là phần của các bậc đã liễu ngộ tự tâm, chứng được pháp thân vô tướng. Tuy nhiên, theo kinh Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới, thì những bậc chứng Sơ Ðịa vào Duy Tâm Ðộ, cũng nguyện xả thân để mau sanh về Cực Lạc. Thế thì biết ngoài tâm không pháp, cảnh Cực Lạc đâu ngoài Duy Tâm? Còn về phần “Lý vô sanh và môn bình đẳng” tuy lý thuyết là như thế, nhưng kẻ lực lượng chưa đủ, trí cạn tâm thô, tập nhiễm nặng, lại gặp cảnh trần lôi cuốn mạnh mẽ, dễ gì mà chứng nhập được. Những kẻ ấy cần phải cầu sanh Cực Lạc, nhờ cảnh duyên thắng diệu ở đó, mới mau chứng vào Tịnh Ðộ duy tâm và thực hành đạo Bồ Tát.
Thập Nghi Luận cũng nói: “Bậc trí tuy liễu vô sanh, song vẫn hăng hái cầu về Tịnh Ðộ, vì thấu suốt sanh thể như huyễn không thể tìm được. Ðó mới thật là chân vô sanh. Còn kẻ ngu không hiểu lý ấy, bị nghĩa sanh ràng buộc, nghe nói sanh thì nghĩ rằng thật có tướng sanh, nghe nói vô sanh lại tưởng lầm là không sanh về đâu cả. Do đó, họ mới khởi niệm thị phi chê bai lẫn nhau gây thành nghiệp tà kiến báng pháp. Ðáng thương thay!
Hỏi: - Kinh luận nói: “Ngoài tâm không pháp, Phật không khứ lai”. Nhưng sao người tu Tịnh Ðộ lại thấy Thánh tướng và việc Phật đến rước là như thế nào?
Ðáp: - Kinh Bát Chu nói: “Như người nằm mơ thấy bảy thứ báu, hàng thân thuộc đều cùng vui mừng. Ðến lúc thức tỉnh nghĩ lại, chẳng biết cảnh sang giàu ấy ở đâu? Sự việc niệm Phật cũng như vậy”. Thế thì biết các cảnh đều như huyễn, do duy tâm hiện, tức có mà không, tuy hiện tướng khứ lai song thật không có đến đi. Cho nên, thánh cảnh tuy như huyễn, song chẳng phải không có huyễn tướng, việc đến đi tuy không thật, song chẳng ngại gì có tướng khứ lai. Ðó là lý trung đạo. Huyễn sắc tức chân không chính huyễn sắc, có và không đều vô ngại. Tất cả sự và cảnh chúng sanh đang sống ở thế gian này cũng đều như thế.
Thật ra, chân cảnh của duy tâm, không có đông tây cùng các phương hướng, không có đến đi qua lại, cũng không có một pháp nào ngoài tâm. Nhưng với bậc đã dứt trừ nghiệp hoặc, chứng Vô Sanh Nhẫn, vào thật tướng của pháp thân, mới dám đương sánh huyền lý trên đây. Còn hàng sơ tâm mới tu, chớ nên lầm tự nhận.
Chí Thành Cung Kính
BÀI VĂN KHUYÊN PHÁT LÒNG BỒ ĐỀ (Phần 1)
(THẬT HIỀN ĐẠI SƯ SOẠN)
Từng nghe: Cửa yếu vào đạo, phát tâm làm đầu. Việc gấp tu hành, lập nguyện ở trước. Nguyện lập, tất chúng sanh có thể độ. Tâm phát, thì Phật đạo mới kham thành. Nếu không phát tâm rộng lớn, lập nguyện vững bền, thì trải kiếp số như vi trần, vẫn còn trong vòng sanh tử. Dù có tu hành siêng khổ, chỉ luống công khó nhọc mà thôi!
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu quên mất tâm Bồ đề mà tu các pháp lành đó là nghiệp ma”. Quên mất còn như thế, huống là chưa phát ư? Cho nên, muốn học Như Lai thừa, trước phát Bồ đề nguyện. Điều này vẫn không thể lần lựa vậy.
Nhưng sự sai biệt của tâm nguyện, tướng trạng có rất nhiều. Nay xin vì đại chúng, mà ước lược tỏ bày. Phát tâm gồm tám tướng là: tà, chánh, chân, ngụy, cùng đại, tiểu, thiên, viên. Tám tướng ấy như thế nào?
1. Trong đời có người tu, chỉ một bề hành theo sự tướng, không xoay vào tham cứu chân tâm. Hoặc theo việc bên ngoài, ưa thích hư danh, mong cầu lợi dưỡng. Hoặc đắm mê huyễn cảnh, tham dục lạc hiện tại, cầu phước báu đời sau. Phát tâm như thế gọi là Tà.
2. Bậc không cầu lợi dưỡng, cũng chẳng thích hư danh, vui hiện thế không màng, phước vị lai chẳng tưởng. Chỉ vì sự sống chết, mong cầu đạo Bồ đề. Phát tâm như thế gọi là Chánh.
3. Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh. Nghe thành Phật lâu xa chẳng khiếp lui, thấy chúng sanh khó độ không chán mỏi. Như leo non cao muôn dặm, quyết trèo tận đỉnh. Như lên tháp báu chín cấp, đến ngọn chót cùng. Phát tâm như thế gọi là Chân.
4. Có tội không sám hối, có lỗi chẳng biết trừ. Trong trược mà ngoài thanh, trước siêng nhưng sau trễ. Tuy có lòng tốt, song xen lẫn với lợi danh. Dù tu pháp lành, bị tội nghiệp làm ô nhiễm. Phát tâm như thế gọi là Ngụy (Dối).
5. Chúng sanh độ hết, bản nguyện mới cùng. Phật đạo tròn nên, thề nguyện mới mãn. Phát tâm như thế gọi là Đại.
6. Xem ba cõi như tù ngục, nhìn sống chết tợ oan gia. Chỉ mong tự độ, không muốn độ người. Phát tâm như thế gọi là Tiểu.
7. Thấy ngoài tâm có chúng sanh, mình phải độ. Hiểu ngoài tâm có Phật đạo, rồi nguyện thành. Công tu tập chẳng sạch quên, sự kiến giải không tiêu mất. Phát tâm như thế gọi là Thiên (Lệch).
8. Biết chúng sanh là tánh mình, nên nguyện độ thoát. Rõ Phật đạo là tánh mình, nên nguyện viên thành. Lìa ngoài nguồn tâm thể, không thấy có pháp chi. Rồi dùng tâm rỗng như hư không, phát nguyện lớn như hư không, tu hạnh rộng như hư không. Kết cuộc chứng quả vô chứng đắc như hư không, cũng chẳng thấy có tướng “không”. Phát tâm như thế gọi là Viên.
Tám lối phát tâm trên đã biết rành rẽ. Nên tự xét kỹ, xem mình phát tâm thuộc về cách nào? Nếu thấy là Tà, Ngụy, Tiểu, Thiên, phải lập tức sửa đổi. Như thuộc Chánh, Chân, Viên, Đại, nên bền chắc thêm lên. Như thế mới gọi là chân chánh phát Bồ đề tâm.
Bồ đề tâm này là vua trong các pháp lành, phải có nhân duyên mới phát khởi được. Nhân duyên ấy đại ước có mười thứ:
1. Vì nghĩ đến ơn Phật: - Đức Thích Tôn ta, khi mới phát tâm, vì độ chúng ta, tu Bồ Tát đạo, trải vô lượng kiếp chịu đủ sự khổ. Lúc ta tạo nghiệp, đức Phật xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu si, không chịu tin theo. Ta đọa ác đạo, Phật lại càng thương, muốn thay chịu khổ. Nhưng ta nghiệp nặng, không thể cứu vớt. Ta sanh làm người, Phật dùng phương tiện, khiến gieo căn lành, nhiều kiếp theo dõi, lòng không tạm bỏ. Phật mới ứng thế, ta còn trầm luân, nay được thân người, Phật đã diệt độ. Tội chi mà sanh nhằm mạt pháp? Phước gì mà dự Tăng luân? Chướng chi mà không thấy kim thân? May gì mà được gặp Thánh tượng?
Rồi tự suy nghĩ: Nếu đời trước chẳng trồng căn lành, thì làm sao được nghe Phật pháp? Không nghe chánh pháp, đâu biết mình thường thọ Phật ân? Ân đức này, bể thẳm khôn cùng, non cao khó sánh! Nếu không phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ Tát, giữ vững chánh pháp, cứu độ chúng sanh, thì dù nát thịt tan xương, cũng không đền đáp được! Đây là nhân duyên thứ nhất.
2. Vì nhớ ơn cha mẹ: - Than ôi cha mẹ, sanh ta khó nhọc! Mười tháng mang thai mỏi nặng, ba năm bú sữa mớm cơm. Khi được nên người, chỉ mong ta nối dõi tông đường, tự thừa tiên tổ. Ngờ đâu ta đã xuất gia, lạm xưng Thích tử, không dâng cơm nước, chẳng đỡ tay chân. Cha mẹ còn, ta không thể nuôi dưỡng thân già. Cha mẹ mất, ta chưa thể dắt dìu thần thức. Chừng hồi tưởng lại thì, nước trời đà cách biệt từ dung, mồ biếc chỉ hắt hiu thu thảo. Như thế, với đời là sự tổn lớn, với đạo lại không ích chi, hai đường đã lỗi, khó tránh tội khiên!
Nghĩ như thế rồi, làm sao chuộc lại? Chỉ có trăm kiếp ngàn đời, tu Bồ Tát hạnh, mười phương ba cõi, độ khắp chúng sanh. Được như vậy, chẳng những cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều đời, đều nhờ độ thoát. Chẳng những cha mẹ một người, mà cha mẹ nhiều người, cũng được siêu thăng. Đây là nhân duyên thứ hai.
3. Vì tưởng ơn Sư trưởng: - Cha mẹ tuy sanh dục sắc thân, nhưng nếu không có thầy thế gian, thì ta chẳng hiểu biết nghĩa nhân. Không có thầy xuất thế, tất ta chẳng am tường Phật pháp. Không biết lễ nghĩa liêm sỉ, nào khác chi loài cầm thú? Không tường nhân quả Phật pháp, đâu khác gì hàng ngu mông? Nay ta biết chút ít lễ nghĩa, hiểu đôi phần Phật pháp là nhờ đâu? Huống nữa, thân giới phẩm đã nhuận phần đức hạnh, áo cà sa thêm rạng vẻ phước điền, thực ra đều do ân Sư trưởng mà được.
Đã biết như thế, nếu ta cầu tiểu quả thì chỉ có thể lợi riêng mình. Nay phải phát đại tâm, mới mong độ các loài hàm thức. Như vậy thầy thế gian mới dự hưởng phần lợi ích, mà thầy xuất thế cũng thỏa mãn vui lòng. Đây là nhân duyên thứ ba.
4. Vì nghĩ ân thí chủ: - Kẻ xuất gia hôm nay, đồ mặc thức ăn, đều nhờ tín thí, thuốc men giường chiếu, cũng của đàn na. Người nhọc sức cấy cày, vẫn còn kém thiếu. Ta ngồi không thọ hưởng, sao nỡ an lòng? Kẻ dệt may gian khổ, chẳng kể đêm hôm. Ta y phục dư thừa, há không mến tiếc? Người nhà lá vách phên, trọn đời bận rộn. Ta nền cao đền rộng, thong thả quanh năm. Đem công cực nhọc để cung cấp cho ta sự an nhàn, lòng nào vui được? Lấy tài lợi riêng để giúp cho ta được no đủ, lý có hợp không?
Thế nên tự nghĩ: Phải vận lòng bi trí, tu phước huệ trang nghiêm để đàn tín được phước duyên, chúng sanh nhờ lợi ích. Bằng chẳng vậy thì chút hạt cơm tấc vải, đền đáp có phần; thân nô dịch súc sanh, nợ nần phải trả. Đây là nhân duyên thứ tư.
5. Vì biết ơn chúng sanh: - Ta cùng chúng sanh từ vô thỉ đến nay, kiếp kiếp đời đời thay đổi làm quyến thuộc, kia đây đều có nghĩa với nhau. Nay dù cách đời đổi thân, hôn mê không nhớ biết, song cứ lý suy ra, chẳng thể không đền đáp.
Vật loại mang lông đội sừng ngày nay, biết đâu ta là con của nó trong kiếp trước? Loài bướm ong trùn dế hiện tại, biết đâu đó là thân sinh tiền thế của mình? Đến như tiếng rên siết trong thành ngạ quỷ, giọng kêu la dưới cõi âm ty, ta tuy không thấy chẳng nghe, họ vẫn van cầu cứu vớt. Ngoài kinh ra, nơi đâu bày tỏ việc này? Không Phật nói, chẳng ai hiểu rành điều ấy! Cho nên Bồ Tát xem ong kiến là cha mẹ quá khứ, nhìn thú cầm là chư Phật vị lai. Thương nẻo khổ lâu dài, hằng lo cứu vớt. Nhớ nghĩa xưa sâu nặng, thường tưởng báo ân. Đây là nhân duyên thứ năm.
(Xin đọc tiếp ở phía dưới)
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
5 days ago | [YT] | 10
View 3 replies
Chí Thành Cung Kính
BÀI VĂN KHUYÊN PHÁT LÒNG BỒ ĐỀ (Phần 2)
(THẬT HIỀN ĐẠI SƯ SOẠN)
6. Vì tưởng khổ sanh tử: - Ta cùng chúng sanh, nhiều kiếp đến nay hằng trong vòng sanh tử, chưa từng được thoát ly. Khi ở cõi này, lúc thế giới khác, khi sanh thiên cảnh, lúc sống nhơn gian, siêu đọa phút giây, xuống lên muôn nẻo. Cửa quỷ sớm đi rồi chiều lại; âm ty nay thoát bỗng mai vào. Lên non đao rừng kiếm thân thể đứt rời. Nuốt sắt nóng dầu sôi, ruột gan rã cháy. Khóc than trong lửa, rên siết trong băng. Muôn lần sống chết nội ngày đêm, giây phút khổ đau bằng thế kỷ! Lúc ấy dù biết tội khổ, nhưng ăn năn sao kịp! Khi ra khỏi vội liền quên mất, vẫn tạo tội như thường! Tâm không hằng như lữ khách ruổi giong. Thân chẳng định dường cửa nhà thay đổi. Cát bụi cõi Đại thiên, không tính nổi số thân luân chuyển. Nước đầy trong bốn bể, chẳng nhiều bằng giọt lệ biệt ly! Nếu không lời Phật, việc này ai thấy ai nghe? Ví chẳng xem kinh, lý ấy đâu hay đâu biết? Thảng hoặc luyến mê như trước, chỉ y cứ luân hồi. Rồi ra muôn kiếp nghìn sanh, khó hối một lầm trăm lẫn. Giờ tốt vội qua mà chẳng lại, thân người dễ mất nhưng khó tìm. Âm cảnh mịt mờ, xót nỗi biệt ly dài dặc! Tam đồ ác báo, thương cho thống khổ ai thay?
Vậy phải dứt nguồn sanh tử, cạn bể dục si, độ thoát mình người, đồng lên giác ngạn. Muôn đời siêu hoặc đọa, quan hệ ở phút này, không thể bê trễ được! Đây là nhân duyên thứ sáu.
7. Vì tôn trọng tánh linh: - Tâm tánh của ta cùng Thích Ca Như Lai không hai không khác. Tại sao đức Thích Tôn đã thành chánh giác sáng suốt tự tại, mà ta vẫn còn là phàm phu điên đảo hôn mê? Lại đức Thế Tôn có đủ vô lượng thần thông trí huệ, công đức trang nghiêm. Còn chúng ta thì đầy vô lượng phiền não nghiệp duyên, lụy trần ràng buộc?
Tâm tánh tuy vẫn đồng một, vì mê ngộ nên cách vực trời. Ví như hạt bảo châu vô giá vùi dưới bùn nhơ, người xem dường đất đá. Cho nên phải dùng vô lượng pháp lành, đối trị phiền não, để tánh đức hiển bày. Như bảo châu được rửa sạch lau khô, treo để trên tràng cao, liền phóng quang rực rỡ. Thế mới không uổng công Phật giáo hóa, chẳng phụ tánh linh mình, xứng đáng bậc trượng phu. Đây là nhân duyên thứ bảy.
8. Vì sám hối nghiệp chướng: - Kinh nói: “Phạm một giới nhỏ, phải đọa địa ngục bằng tuổi thọ của Tứ Thiên Vương”. Lỗi nhỏ còn như thế, huống chi tội nặng ư? Chúng ta mỗi ngày, một cử một động thường sai giới luật, lúc ăn lúc uống hằng phạm Thi-la. Tính kỹ trong một ngày cũng đã nhiều tội, huống chi trọn đời, cho đến vô lượng kiếp về trước! Cứ lấy ngũ giới mà xét, thì mười người đã hết chín phạm, ít phát lộ nhiều giấu che. Năm giới còn như thế, huống là giới Sa-di, Tỳ-kheo và Bồ Tát ư?
Nay ta phải phát lòng thương mình, thương người, lệ rơi theo tiếng, thân khẩu thiết tha, cùng với chúng sanh, ai cầu sám hối! Chẳng thế thì ngàn đời muôn kiếp, ác báo khó trừ, làm sao thoát khổ? Đây là nhân duyên thứ tám.
9. Vì cầu sanh Tịnh Độ: - Ở cõi này tu tập, việc tiến đạo khó khăn; về Cực Lạc hành trì, sự thành Phật dễ thuận. Vì dễ thuận, nên một đời liền đắc quả. Bởi khó khăn, nên nhiều kiếp vẫn chưa thành. Cho nên thánh trước hiền sau, người người xu hướng. Ngàn kinh muôn pháp, chỗ chỗ chỉ quy. Sự tu hành giữa thời mạt pháp, thật không chi hơn pháp môn này. Như kinh nói: - Ít căn lành khó được vãng sanh, nhiều phước đức mới về cõi Tịnh. Nhiều phước đức không gì bằng chấp trì danh hiệu. Nhiều căn lành chẳng chi hơn phát ý Bồ đề. Tạm trì Phật hiệu, thắng hơn bố thí trăm năm. Một phát đại tâm, vượt quá tu hành nhiều kiếp. Bởi niệm Phật vẫn mong thành Phật, đại tâm không phát, thì niệm Phật để làm chi? Còn phát tâm vốn để tu hành, Tịnh Độ chẳng cầu, dù phát cũng dễ thối chuyển. Cho nên gieo hạt giống Bồ đề, cày lưỡi cày niệm Phật, đạo quả tự nhiên tăng tiến. Nương chiếc thuyền đại nguyện, vào biển mầu Tịnh Độ, Tây phương quyết định sanh về. Đây là nhân duyên thứ chín.
10. Vì hộ trì chánh pháp: - Đức Thế Tôn ta từ vô lượng kiếp đến nay, vì chúng ta mà tu đạo Bồ đề. Ngài đã làm việc khó làm, nhịn điều khó nhịn, công tròn quả mãn, thành đấng Như Lai. Sau khi thành Phật, duyên giáo hóa đã xong liền vào Niết Bàn. Nay chánh pháp đã qua, tượng pháp đã hết, chỉ còn mạt pháp, có kinh giáo mà không kẻ đắc thành. Thời nay tà chánh chẳng phân, thị phi lẫn lộn, tranh đua nhơn ngã, đeo đuổi lợi danh. Tam Bảo chẳng còn thật nghĩa, suy tàn tồi tệ không nỡ thốt lời. Khi nghĩ đến đây, khó cầm giọt lệ!
Ta là Phật tử, không báo được ân, trong không ích cho mình, ngoài không ích cho người, sống không ích dương thế, chết không ích đời sau. Suy nghĩ như vậy, đau lòng xót dạ, vội phát Bồ đề, nguyện nguyện độ sanh, tâm tâm cầu Phật, thề hết báo thân, sanh về Cực Lạc. Những mong sau khi chứng quả, trở lại Ta Bà, khiến cho Phật nhật rạng soi, pháp môn rộng mở. Tăng hải đẹp thanh nơi cõi trược, nhân dân tu đức ở phương Đông. Kiếp vận nhờ đó mà tiêu trừ, chánh pháp do đây được bền vững. Đây là nhân duyên thứ mười.
Như trên tám cách đã thông, mười duyên đã biết, phát tâm có chỗ, xu hướng có nơi. Trông mong đại chúng, đồng lập đại nguyện, đồng phát đại tâm. Nếu chưa phát thì nay phát, đã phát nên tăng trưởng, đã tăng trưởng khiến tương tục. Chớ thấy khó mà thối khiếp, chớ thấy dễ mà khinh thường. Chớ dục tốc mà chẳng bền lâu, chớ biếng trễ mà không tiến ích. Cũng đừng vì tối dốt mà một mặt vô tâm, đừng vì trí cạn mà tự hiềm vô phận. Ví như trồng cây, trồng lâu thì rễ cạn lần sâu. Lại như mài dao, mài bền thì lưỡi lụt lần bén. Đâu nên vì rễ cạn mà bỏ khô không vun xới, dao lụt mà để luống thành phế hư!
Còn nếu cho tu hành là khổ, tất chưa biết biếng trễ lại càng khổ hơn! Tu hành tuy siêng nhọc nhứt thời, nhưng an vui mãi mãi.
Biếng trễ chỉ tạm nhàn một kiếp, song khổ lụy đời đời. Huống chi dùng Tịnh Độ làm thuyền bè, đâu lo gì thối chuyển? Lại được vô sanh làm sức nhẫn, há còn sợ gian nan? Chớ bảo ý niệm vô thường, nguyện suông vô ích. Phải biết tâm chân thì sự thật. Nguyện rộng tất hạnh sâu. Hư không chẳng rộng lớn bằng nguyện tâm, kim cương không cứng bền bằng nguyện lực.
Đại chúng nếu không chê bỏ lời này, thì xin nguyện cùng làm quyến thuộc Bồ đề, bạn lành Tịnh Độ. Nguyện đồng sanh Cực Lạc, đồng thấy Di Đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh Giác.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
5 days ago (edited) | [YT] | 8
View 2 replies
Chí Thành Cung Kính
THẬT HIỀN ÐẠI SƯ (LIÊN TÔNG THẬP NHẤT TỔ)
Thật Hiền đại sư, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, người đời Thanh, con nhà họ Thời ở Thường Thục.
Từ thuở bé ngài không ăn cá thịt. Sau khi xuất gia, tham cứu câu “Niệm Phật là ai?” được tỏ ngộ, và nói: “Tôi đã tỉnh giấc mơ!”.
Kế tiếp, Ðại sư đóng cửa thất ba năm ở chùa Chân Tịch, ngày duyệt ba tạng kinh, đêm chuyên trì Phật hiệu. Mãn thất, ngài đến Mậu Sơn lễ xá lợi ở tháp A Dục Vương. Nhằm ngày Phật niết bàn, Ðại sư họp nhiều hàng đạo tục sắm lễ cúng dường, rồi đốt ngón tay trước Phật, phát bốn mươi tám điều đại nguyện. Lúc ấy cảm xá lợi phóng ánh sáng rực rỡ. Ðại sư làm bài văn “Khuyên Phát Lòng Bồ Ðề” để khuyến khích tứ chúng, nhiều người đọc đều rơi lệ.
Lúc lớn tuổi, ngài về trụ trì chùa Tiên Lâm tại Hàng Châu. Năm Ung Chánh thứ bảy, Ðại sư lập Liên Xã, làm văn phát thệ giữa đại chúng, lấy trọn đời tinh tấn tu Tịnh nghiệp làm kỳ hạn. Ngài chia nhật khóa làm hai mươi phần, mười phần trì danh, chín phần quán tưởng, một phần lễ sám. Có nhà tu Thiền hỏi về chỉ thú niệm Phật, Ðại sư dùng lời kệ khai thị rằng:
Một câu A Di Ðà
Là việc đầu công án
Không thương lượng chi khác
Thẳng ngay liền quyết đoán,
Ví như đống lửa lớn
Nhảy vào liền cháy tan
Lại như gươm Thái A
Xông vào liền đứt đoạn
Sáu chữ gồm nhiếp thâu
Tám muôn tư pháp tạng
Một câu giải quyết xong
Ngàn bảy trăm công án
Mặc ai không thích nghe
Ta tự tâm tâm niệm
Xin bất tất nhiều lời
Gắng một lòng không loạn!
Niên hiệu Ung Chánh thứ hai, ngày mùng tám tháng chạp, Ðại sư bảo chúng rằng: “Tháng Tư sang năm ta sẽ đi xa”. Rồi đóng cửa thất, mỗi ngày niệm Phật mười muôn câu. Sang năm, ngày 12 tháng 4, Ðại sư bảo môn đồ rằng: “Từ đầu tháng đến nay, ta đã hai phen thấy Tây phương Tam Thánh, chắc là đến lúc vãng sanh!”. Nói xong, liền làm kệ giã từ đại chúng. Qua hôm sau, Ðại sư không ăn uống, cứ nhắm mắt ngồi thẳng. Ðến canh năm tắm rửa thay y áo. Bữa ấy tức là ngày 14, gần giờ ngọ, Ðại sư lại nhắm mắt day về Tây ngồi yên lặng. Hàng đạo tục các nơi nghe tin hội về đông như chợ. Ðại sư bỗng mở mắt nói: “Tôi về Cực Lạc không bao lâu sẽ trở lại. Thoát ly sống chết là việc lớn, mỗi người nên cố gắng thanh tịnh niệm Phật!”.
Dặn dò xong, chấp tay xướng hồng danh Phật rồi thị tịch, thọ được 49 tuổi.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
1 week ago (edited) | [YT] | 6
View 1 reply
Chí Thành Cung Kính
HÀNH SÁCH ÐẠI SƯ (LIÊN TÔNG THẬP TỔ)
Hành Sách đại sư, tự là Triệt Lưu, người đời nhà Thanh, con của Tưởng Toàn Xương, một bậc lão Nho ở vùng Nghi Hưng. Cha ngài là bạn phương ngoại với Ðức Thanh hòa thượng, tức Hám Sơn đại sư.
Niên hiệu Thiên Khải thứ sáu, sau khi Hám Sơn đại sư thị tịch được ba năm, một đêm Tưởng Toàn Xương nằm mộng thấy ngài Hám Sơn vào nhà mình. Cũng trong đêm ấy, Hành Sách đại sư sanh ra, nên nhân đó ngài lại được cha đặt cho ngoại hiệu là Mộng Hám. Ðến khi khôn lớn, cha mẹ kế tiếp qua đời, ngài cảm sự thế vô thường, có ý niệm thoát tục.
Năm hai mươi ba tuổi, ngài thế phát xuất gia với Nhược Am hòa thượng ở chùa Lý An. Tu hành tinh tấn không đặt lưng xuống chiếu trải năm độ nắng mưa, ngài tỏ suốt nguồn chân, ngộ vào pháp tánh. Sau khi Nhược Am hòa thượng thị tịch, Ðại sư trụ trì chùa Báo Ân. Thời gian này, ngài được bạn đồng tham là Tức Am thiền sư khuyên tu Tịnh Ðộ, lại gặp Tiều Thạch pháp sư hướng dẫn duyệt lãm về Thiên Thai Giáo Quán. Kế đó, ngài cùng Tiều Thạch pháp sư đồng nhập thất tu môn Pháp Hoa tam muội. Nhân đây, túc huệ của Ðại sư khai phát, ngộ suốt đến chỗ cốt tủy của Thai Giáo.
Niên hiệu Khang Hy thứ hai, ngài cất am ở núi Pháp Hoa, bên bờ sông Tây Khê tại Hàng Châu, chuyên tu Tịnh Ðộ. Nhân đó lại đặt tên chỗ ở của mình là Liên Phụ Am. Ðến năm Khang Hy thứ chín, Ðại sư trụ trì chùa Phổ Nhân ở Ngư Sơn, đề xướng thành lập Liên Xã. Học giả các nơi hưởng ứng tu tập rất đông. Ngài từng làm bài văn khuyên phát lòng tin chân thật rằng:
- “Phần đông người tu tập xưa nay, đều ưa thích Niệm Phật tam muội. Tuy nói quả cao dễ tu tiến, mà kẻ sau ít được thành công. Ấy bởi do tín nguyện không chuyên, nên chẳng thể đồng về cảnh Tịnh. Nay đã họp nhiều liên hữu, cùng nhau tu tập Tịnh nhân, nếu không xét kỹ chỗ phát tâm, đâu biết rõ lối đường thoát khổ. Ðồng nhơn chúng ta dự vào pháp hội, lòng tin chí nguyện phải thật phải chân. Nếu không chân chính, tuy ăn chay niệm Phật, tu phước phóng sanh, chỉ là người lành thế gian, duy hưởng nhơn thiên phước báu. Lúc hưởng phước vui, dễ bề tạo nghiệp, đã tạo nhiều nghiệp ác, phải đọa khổ luân hồi. Ðiều này dùng chánh nhãn xét xem: chỉ hơn bọn xiển đề một bước! Nếu lòng tin như thế, đâu được gọi là chân? Vậy chân tín là thế nào?
Thứ nhất phải tin: Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba không sai khác. Chúng ta là Phật chưa thành, Di Ðà là Phật đã thành. Giác tánh đồng một vẫn không có hai. Ta tuy điên đảo mê lầm, giác tánh chưa từng mất. Ta tuy nhiều kiếp luân chuyển, giác tánh chưa từng động. Nên nói: Khi một niệm hồi quang đồng về nơi bản đắc là như thế.
Thứ hai phải tin: Chúng ta là Phật danh tự, Di Ðà là Phật cứu cánh, tánh tuy không khác, ngôi cách vực trời. Nếu không chuyên niệm đức Phật kia, cầu về cõi Tịnh; tất phải chịu theo nghiệp lưu chuyển, chịu khổ vô cùng! Ðây gọi là pháp thân lưu chuyển sáu nẻo, không được thành Phật, mà vẫn cam phận chúng sanh.
Thứ ba phải tin: Chúng ta dù nghiệp sâu chướng nặng, sống lâu nơi cảnh khổ, vẫn là chúng sanh trong tâm của Di Ðà. Di Ðà tuy muôn đức trang nghiêm an vui ở cõi Tịnh, cũng là vị Phật trong tâm của chúng ta. Ðã rõ chân tâm vốn không hai, tất biết cảm ứng tự giao tiếp. Như đá nam châm hút sắt, việc này đâu lựa phải nghi? Ðây gọi: nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền hoặc tương lai, quyết định sẽ thấy Phật, cách Phật chẳng xa vậy.
Ðủ lòng tin chân thật như trên, tuy chút phước điểm lành như hạt bụi mảy lông, đều có thể hồi hướng Tây Phương, trang nghiêm Tịnh Ðộ. Huống nữa trì trai giữ giới, bố thí, phóng sanh, đọc tụng Ðại thừa, cúng dường Tam Bảo, tu các hạnh lành, há chẳng đủ làm tư lương Tịnh Ðộ ư? Chỉ e lòng tin chẳng chân thành, mới khiến bị chìm nơi hữu lậu. Cho nên trong việc tịnh tu, không chước chi lạ. Muốn công không luống uổng, quả được tròn nên, thì ngày đêm khi hành đạo, không rời ba điều tin trên mà thôi!”.
Ðại sư thường tổ chức những kỳ đả thất, để khuyến thích đại chúng tinh tấn thêm. Trong các kỳ thất, ngài khai thị đại ý rằng:
- “Bảy ngày trì danh, quý nơi giữ một lòng không loạn, chớ để trần lụy xen vào, không phải niệm mau niệm nhiều là hay. Cách trì danh, cần không hưỡn không gấp, bền bỉ chắc chắn, khiến cho câu Phật hiệu hiện rành rõ nơi tâm. Khi đi đứng nằm ngồi, ăn cơm mặc áo, nên giữ câu hồng danh liên tục chẳng dứt, không tán loạn hôn trầm, dường như hơi thở ra vào nối tiếp. Trì danh như thế gọi là nhứt tâm tinh tấn về phần Sự.
Nếu thể cứu được sâu vào, thì muôn pháp đều như, nguyên không hai tướng. Ðó là chúng sanh cùng Phật, mình cùng người, nhân với quả, y báo với chánh báo, nhơ cùng sạch, khổ cùng vui, ưa với chán, lấy với bỏ, Bồ Ðề cùng phiền não, sanh tử cùng Niết Bàn… các pháp ấy đều không hai, đều đồng một tướng, đồng một thể thanh tịnh. Như thế cứ thể cứu một cách thiết thật, không cần phải gắng gượng an bài. Thể cứu đến lúc cùng cực bỗng nhiên khế hợp với bản tâm. Chừng đó mới biết mặc áo ăn cơm cũng là tam muội, cười đùa giận mắng đều việc độ sanh. Khi ấy nhất tâm hay loạn tâm trọn thành hý luận, ngày đêm sáu thời tìm một mảy tướng khác cũng không thể được. Liễu đạt như thế, mới chân chánh là người học đạo. Và trì danh như thế, gọi là nhứt tâm tinh tấn về phần Lý.
Sự nhứt tâm như trước tợ khó mà dễ. Lý nhứt tâm như sau tợ dễ mà khó. Chỉ nhứt tâm được như trước, quyết chắc dự phần vãng sanh. Nếu kiêm thêm cảnh nhứt tâm sau, tất có thể lên ngôi Thượng phẩm. Nhưng hai thứ nhứt tâm đây, đều là phần việc kẻ bác địa phàm phu, người hữu tâm đều có thể tu học. Khắp khuyên các hàng đạo tục trong Liên Xã, đều phải sách tấn thân tâm. Gần trong bảy ngày, xa suốt một đời, nếu thường tin và tu như thế, thì dù không chứng quả, cũng mạnh nhân sen. Ngày kia gởi chất liên trì, tất không thuộc phẩm Trung hạ vậy”.
Ðại sư trụ trì chùa Phổ Nhân được mười ba năm. Niên hiệu Khang Hy thứ hai mươi mốt, ngày mùng chín tháng bảy, ngài thoát hóa, thọ 55 tuổi. Khi ấy có ông Tôn Hàn bị cấp bịnh tắt hơi, hôm sau bỗng sống lại nói: “Tôi bị Minh ty bắt giam cầm nơi điện Diêm La. Bỗng đâu trong chỗ tối tăm, thấy ánh sáng rực trời, hương hoa đầy khắp hư không. Vua Diêm La quỳ mọp xuống đất, đưa một vị Ðại sư về Tây phương. Tôi thưa hỏi Đại sư nào, được đáp là ngài Triệt Lưu. Nhờ ánh sáng của Ðại sư chiếu đến, tôi mới được tha trở về”. Ðồng ngày ấy có con nhà họ Ngô chết, qua một đêm sống lại, cũng thuật việc mình nghe thấy y như ông Tôn Hàn.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
2 weeks ago (edited) | [YT] | 6
View 2 replies
Chí Thành Cung Kính
TRÍ HÚC ÐẠI SƯ (LIÊN TÔNG CỬU TỔ)
Trí Húc đại sư tự Ngẫu Ích, người đời Thanh, họ Chung, nhà ở Ngô huyện. Thân phụ thọ trì chú Ðại Bi và Bạch Y, mộng thấy đức Quán Âm đại sĩ trao cho một đứa bé trai mà sanh ra ngài.
Thuở niên thiếu ngài học Nho, từng viết sách bác Phật. Sau nhân xem bộ Trúc Song Tùy Bút Lục của Liên Trì đại sư, liền đốt quyển sách của mình viết. Năm hai mươi tuổi, ngài đọc kinh Ðịa Tạng Bản Nguyện, phát ý xuất trần, mỗi ngày hằng niệm Phật.
Niên hiệu Thiên Khải năm đầu, ngài hai mươi bốn tuổi, sau khi nghe một Pháp sư giảng kinh, bỗng phát nghi tình, dụng công tham cứu. Ít lâu sau được tỏ ngộ, liền đóng cửa nhập thất ở Ngô Giang. Thời kỳ ấy ngài đau nặng, mới quyết chí niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Bịnh vừa bớt, liền kết đàn trì chú Vãng Sanh một thất, đốt ba liều nơi cánh tay, thề phát lòng Bồ Ðề cầu sanh Cực Lạc, để mau chứng đạo quả, sớm độ chúng hữu tình.
Về sau, Ðại sư trụ trì trải qua các nơi: Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch Thành, Thánh Khê, Trường Thủy và Tân An, rộng truyền giáo pháp Thiên Thai và môn Niệm Phật. Thời bấy giờ, những nhà tu Thiền ở các nơi, phần đông cho pháp môn Tịnh Ðộ là quyền giáo; khi gặp người niệm Phật, tất bảo tham cứu chữ Thùy. Riêng Ðại sư lại nhận định pháp Trì Danh chính là tâm tông viên đốn. Có ông Trác Tả Xa, một nhà tu Thiền, đem những huyền lý bên Thiền gạn hỏi Tịnh Ðộ, ngài liền trả lời một cách thỏa đáng. Sau đó, Ðại sư về dưỡng lão ở Linh Phong. Bình thời, Ðại sư từng khai thị rằng:
- Pháp môn Tịnh Ðộ không có chi lạ kỳ đặc biệt, yếu điểm chỉ là tin sâu, nguyện thiết và gắng sức thật hành mà thôi. Phật dạy: “Nếu người nào chuyên niệm A Di Ðà, chính là Vô thượng thâm diệu thiền”. Trí Giả đại sư bảo: “Niệm Phật tam muội là vua trong các môn tam muội”. Tổ Vân Thê cũng nói: “Một câu A Di Ðà Phật bao trùm tám giáo, tròn nhiếp năm tông”. Ðáng tiếc người thời nay xem niệm Phật là cạn cợt tầm thường, bảo đó là công hạnh của hạng ngu phu, ngu phụ. Bởi thế nên lòng tin không chắc, chẳng gắng sức thật hành, trọn ngày lơ là, công phu khó thành tựu. Có kẻ lại lập phương tiện khéo bảo: “Muốn đi sâu vào Niệm Phật tam muội phải tham cứu chữ Thùy”. Họ đâu biết rằng: Một tâm niệm hiện tiền, vốn đã tự rời tứ cú, tuyệt bách phi, chẳng cần phải tác ý rời và tuyệt. Một câu niệm Phật hiện tại, cũng vốn vượt tình lìa kiến, cần chi nói diệu nói huyền? Chỉ quý tin cho chắc, giữ cho vững, rồi buông bỏ hết mà niệm. Hoặc mỗi ngày đêm niệm một muôn, ba muôn, năm muôn, bảy muôn, mười muôn câu, lấy sự nhất định không thiếu làm tiêu chuẩn. Như thế quyết giữ đến suốt đời, thề không biến đổi. Và nếu đúng như thế mà không được vãng sanh, thì chư Phật trong ba đời đều thành vọng ngữ. Một khi được về Cực Lạc, vĩnh viễn không còn thối chuyển, tất cả pháp môn đều lần lượt hiện tiền.
Rất kiêng kỵ kẻ không có chủ trương, nay vầy mai khác. Khi gặp nhà thuyết Giáo, thì muốn tầm chương trích cú, học luật học kinh. Gặp người tu Thiền lại mong tham cứu thoại đầu, theo cơ phong chuyển ngữ. Gặp bậc trì Luật, thì ưa thích ôm bát khất thực, tu hạnh đầu đà. Thế nên sự sự không rồi, điều điều chẳng trọn. Ðâu biết rằng khi câu Phật hiệu niệm được thuần thục, thì ba tạng, mười hai phần kinh gồm ở trong đó; một ngàn bảy trăm công án, cơ quan hướng thượng đều ở trong đó; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, tam tụ tịnh giới cũng ở trong đó.
Người chân thật niệm Phật, buông bỏ cả thân tâm thế giới là đại Bố thí. Niệm Phật không khởi tham sân si là đại Trì giới. Niệm Phật không quản nhơn ngã thị phi là đại Nhẫn nhục. Niệm Phật không gián đoạn, không tạp vọng là đại Tinh tấn. Niệm Phật không còn vọng tưởng thô tế là đại Thiền định. Niệm Phật không bị các pháp khác mê hoặc cuốn lôi là đại Trí huệ. Thử kiểm điểm lấy mình, nếu chưa quên thân tâm thế giới, chưa dứt niệm tham sân si, chưa tuyệt lòng thị phi nhơn ngã, chưa hết gián đoạn tạp vọng, chưa trừ vọng tưởng bông lông, chưa khỏi bị pháp khác cuốn lôi mê hoặc, thì chưa phải là người chân thật niệm Phật.
Nếu muốn đến cảnh giới Nhất tâm bất loạn, cũng không có cách gì lạ. Khi mới tập niệm, dùng chuỗi ký số rành rẽ, và khắc định thời khóa đừng để cho thiếu sót. Như thế lâu ngày, công phu tự thuần thục, không niệm mà vẫn tự niệm. Chừng đó, muốn ký số hay không ký số cũng được. Nếu bước đầu vội muốn lộ vẻ mình hay giỏi, muốn tỏ ra không trước tướng, muốn học lối viên dung tự tại, rốt niệm lực khó thành. Ðây tổng yếu bởi tin chưa sâu, thực hành chưa hết sức. Người như thế, dù cho giảng thông thuộc ba tạng mười hai phần kinh, thấu suốt một ngàn bảy trăm công án, cũng đều là việc bên bờ sống chết luân hồi mà thôi. Kẻ ấy đến lúc lâm chung, quyết định không dùng chi được! ...
Năm Thuận Trị thứ hai, vào cuối Ðông, Ðại sư cảm bịnh nhẹ, ngài di chúc mọi việc và dặn các đệ tử, sau khi trà tỳ, phải tán nhuyễn xương trộn với bột hòa thành viên, chia thí cho loài cá chim để kết duyên Tịnh Ðộ với chúng. Sang đầu năm, ngày 21 tháng giêng, Ðại sư sáng dậy sớm, sắc diện tươi khỏe như người không bịnh. Ðến đúng ngọ, ngài đoan tọa trên giường, xây mặt về Tây, chấp tay niệm Phật mà tịch, thọ được 57 tuổi.
Ba năm sau, các môn nhơn hội lại, định y pháp làm lễ trà tỳ. Lúc mở bảo tháp ra, thấy toàn thân Ðại sư vẫn còn nguyên vẹn, tóc ra dài phủ hai tai, sắc mặt tươi tỉnh như sống. Ðại chúng không nỡ tuân lời di chúc, xây tháp thờ toàn thân ở chùa Linh Phong.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
2 weeks ago (edited) | [YT] | 11
View 4 replies
Chí Thành Cung Kính
CHÂU HOẰNG ÐẠI SƯ (LIÊN TÔNG BÁT TỔ)
Châu Hoằng đại sư, tự Phật Huệ, hiệu Liên Trì, người đời Minh, con nhà họ Trầm, ở xứ Nhan Hòa tại Hàng Châu. Năm mười bảy tuổi ngài đã được bổ làm Giáo thọ, nổi tiếng là người học hạnh kiêm toàn.
Láng giềng có bà lão, mỗi ngày niệm Phật vài ngàn câu, lấy làm thường khóa. Nhân lúc rỗi rảnh sang chơi, ngài hỏi duyên cớ, bà đáp: “Ông nhà tôi lúc sanh tiền chuyên lo niệm Phật, đến khi sắp chết không đau bịnh chi, vui vẻ vòng tay cáo từ mọi người mà qua đời. Do đó, tôi biết công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn!”. Ngài nghe nói cảm động, từ đó hằng để ý đến pháp môn Tịnh Ðộ. Lại viết bốn chữ: “Sống chết việc lớn” dán nơi vách đầu bàn để tự răn nhắc.
Năm ba mươi hai tuổi, ngài xuất gia, rồi đi tham phỏng các bậc danh đức. Sau cùng đến học đạo với Tiếu Nham Nguyệt Tâm thiền sư, tham câu “Niệm Phật là ai?”. Một hôm, đang khi tham cứu bỗng chợt tỉnh ngộ, làm bài kệ rằng:
Hai chục năm qua việc đáng nghi
Ngoài ba ngàn dặm gặp sao kỳ!
Ðốt hương, liệng kích dường như mộng
Ma, Phật, tranh suông thị lẫn phi!
Niên hiệu Long Khánh thứ năm, Ðại sư đi khất thực ngang qua đỉnh Vân Thê, thấy cảnh nước non cực kỳ u nhã, quyết ý cất am ở tu. Trong núi ấy có nhiều cọp, ngài hành phép Du Già thí thực, từ đó các loài thú dữ không còn khuấy hại nữa. Mấy năm sau, gặp lúc nắng hạn lâu, cư dân quanh vùng đến am cầu xin đảo võ. Ngài đáp: “Tôi chỉ biết niệm Phật, không có tài chi khác!”. Mọi người vẫn nài nỉ cố thỉnh. Ðại sư cảm lòng thành của dân chúng, ra thảo am gõ mõ đi dọc theo bờ ruộng mà niệm Phật. Bước chân của ngài đi đến đâu, mưa lớn rơi theo đến đó. Nhân dân vui mừng kính đức, cùng nhau hiệp sức xây cất điện chùa. Tăng chúng các nơi lần lượt nương về, không bao lâu chỗ ấy thành cảnh đại tòng lâm trang nghiêm thanh tịnh.
Ðại sư tuy đã tỏ thiền cơ, nhưng xét thấy căn lực người thời Mạt pháp kém yếu, kẻ nói lý thì nhiều song ngộ lý thật rất ít. Vì muốn lợi mình và người, nên ngài chủ trương Tịnh Ðộ, cực lực bác bỏ cuồng thiền. Bộ Phật Thuyết A Di Ðà Kinh Sớ Sao do ngài trứ tác, dung hòa cả sự lý, gồm nhiếp khắp ba căn, lời dẫn giải rất là uyên áo. Về trước, các bậc Tôn đức trong Phật giáo, tuy hoằng truyền Tịnh Ðộ, nhưng vẫn không bỏ Thiền tông. Ðến phiên Ðại sư là người được chánh truyền tâm ấn từ ngài Tiếu Nham thuộc dòng Lâm Tế, lại chỉ hoằng dương Tịnh Ðộ. Vì thế, các nhà thiền học đương thời rất không bằng lòng. Ông Tào Lổ Xuyên, một vị học Phật, hai phen gởi thơ đến Vân Thê gạn hỏi. Ngài cũng hai phen phúc đáp, mà vài đoạn có liên quan đến Tịnh Ðộ, sẽ được trích thuật ở phần sau.
Ðại sư bình thời cũng tu các công đức để phụ trợ Tịnh nghiệp, như truyền giới pháp, khai những ao phóng sanh. Ngài lại thẩm định nghi Thủy Lục, hành Du Già Diệm Khẩu để cứu khổ u minh, truyền bá văn giới sát, khiến người quy hóa làm lành rất nhiều.
Năm Vạn Lịch thứ bốn mươi, cuối tháng sáu, Ðại sư vào thành từ biệt các đệ tử và những người cố cựu, nói: “Tôi sắp đi nơi khác!”. Rồi ngài trở về chùa thiết tiệc trà từ giã đại chúng. Mọi người không hiểu là duyên cớ gì. Ðến chiều mùng một tháng bảy, ngài vào Tăng đường bảo: “Mai này tôi sẽ đi”.
Qua chiều hôm sau, Ðại sư kêu mệt rồi vào tư thất ngồi kiết già nhắm mắt. Chư Tăng, các đệ tử tại gia và những người cố cựu trong thành đều hội đến. Ngài mở mắt ra nhìn mọi người nói: “Các vị nên chân thật niệm Phật, đừng làm điều chi khác lạ, và chớ phá hoại quy củ của tôi”. Nói xong, hướng về Tây chấp tay niệm Phật mà qua đời. Thọ được tám mươi mốt tuổi.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
*** Xin đọc tiếp phần Phụ Vấn Đáp bên dưới
1 month ago (edited) | [YT] | 5
View 1 reply
Chí Thành Cung Kính
PHỤ VẤN ÐÁP (Châu Hoằng Liên Trì Đại Sư)
(Lược trích)
Thơ hỏi: - Kẻ hèn này từ lâu giữ miền Ðông Lỗ, đối với các kinh điển Nho và Phật, đã làm con mọt sách từ bốn mươi năm qua. Lại thường phụng giáo với những hàng thức giả, cũng uẩn súc được một đôi phần. Nay nhân sư Ðoạn Phàm đến Vân Thê, xin gởi mấy lời để mong sự hiệu chính nơi ngài là bậc thiện tri thức.
1. Trong Phật pháp có ba tạng, mười hai phần giáo, đức Thế Tôn khi xưa đã giăng nhiều thứ lưới nơi bể sanh tử sâu rộng, để tùy phần vớt các loài cá nhơn thiên lớn nhỏ đưa lên bờ Niết Bàn. Nhưng nên nói lớn để gồm nhỏ, đâu thể cử một mà bỏ nhiều! Gần đây, tôi nghe có kẻ bảo: Nhiều kiếp thành Phật, tất là Tiệm chớ không phải Ðốn. Vả Tiệm giáo cũng là Phật dạy, chưa từng không đúng, song dùng Tiệm để bỏ Ðốn giáo, phải chăng thật đã sai lầm?
Tôn giả bên trong ẩn giấu sự tỏ ngộ đốn viên, ngoài thì hiển bày pháp môn Tịnh Ðộ. Việc này chư Phật cũng có như thế, không đủ để hiềm nghi. Nhưng học chúng của ngài lại chỉ trọng một đức A Di Ðà mà bỏ hết mười lăm vị Vương tử, muốn tôn một kinh Tịnh Ðộ mà bỏ hết ba tạng mười hai phần kinh. Ðó là điều kẻ hèn này không muốn nghe! Hiện nay tuy nhằm thời Mạt pháp, song con người há chỉ có độn tánh mà không lợi căn? Như đức Thích Tôn vì Ca Diếp, Kiều Trần Như thì nói pháp này; vì Thiện Tài, Long Nữ lại nói pháp khác. Chỗ thuyết giáo của Phật tùy cơ biến đổi, thật tròn trặn như trên mặt nước lăn trái hồ lô, nếu như cắm cọc đóng đinh, giữ cây chờ thỏ, làm sao lợi ích hàng nhơn thiên được? Rất mong Tôn giả tùy cơ thuyết pháp, khi gặp hàng lợi căn nên vì nói thượng thừa, để họ ngộ lý viên dung không còn thiên trệ khiến cho đại bàng cùng chim én đều được thích nghe. Như thế há chẳng là điều rất lành rất tốt ư?
2. Kinh Hoa Nghiêm là Nhứt thừa viên giáo, là vua trong các kinh. Trong bộ Di Ðà Sớ Sao, Tôn giả lại đem kinh Di Ðà sánh với Hoa Nghiêm, điểm ấy tợ hồ chưa thỏa đáng. Ðã thế, có người lại còn nhân đó mà làm luận đưa cao Tịnh Ðộ, đè nén Hoa Nghiêm, khiến cho màu tím sắc chu thành ra lẫn lộn! Mong Tôn giả vì căn Tịnh Ðộ nói Tịnh Ðộ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm, đừng chê nhau cũng chớ lạm nhau, mới thật là lưu thông Phật pháp.
Thơ đáp: - Tiếp được tờ mây, biết cư sĩ đại lượng bao la, muốn đem hết chúng sanh trong pháp giới đưa vào biển tánh Nhứt thừa. Ðó là nguyện lớn của đức Phổ Hiền, riêng lòng thật lấy làm kính ngưỡng!
1. Theo lời cư sĩ bảo: Tôi nên tùy cơ diễn giáo, đó là ý kiến rất hay! Nhưng tùy muôn cơ mà dẫn dạy, đó là việc của chư Phật ra đời. Ðiều ấy kẻ hèn này chưa làm được. Như khi xưa Lục Tổ ở Tào Khê chuyên dạy môn thiền Trực Chỉ, đâu phải ngài không thông các giáo pháp khác? Và như Viễn Công ở Lô Sơn riêng mở Bạch Liên Xã, gồm các bậc cao Tăng danh sĩ, há chỉ tiếp độ kẻ độn căn? Ðến như năm tông: Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Ðộng, Quy Ngưỡng, Lâm Tế, tuy đồng ra một nguồn, nhưng sự tiếp độ của mỗi tông đều có phần sai khác. Những điều trên là sự thi thiết riêng của chi phái môn đình, đó cũng là lẽ tất nhiên, chẳng lấy chi làm lạ! Chư Tổ sư khi xưa đều như thế, huống nữa là kẻ phàm thường này ư? Nếu không tự lượng bắt chước theo Phật, nay nói pháp này, mai diễn pháp khác, thì thành ra mờ mịt chẳng có sư thừa. Ðó tuy nói là lợi người, kỳ thật làm cho người lầm lạc. Tại sao thế? Bởi Phật là đấng Pháp Vương, đối với các pháp đều tự tại. Còn kẻ dân thường mà tiếm xưng Thiên tử là điều nguy hiểm, há chẳng nên kiêng dè ư?
2. Kinh Hoa Nghiêm đúng là Nhứt thừa Viên giáo, gồm vô lượng môn; cầu sanh Tịnh Ðộ là một trong vô lượng môn của Hoa Nghiêm. Theo căn cơ thời nay, nên do một Tịnh Ðộ mà vào Hoa Nghiêm, không phải nêu Tịnh Ðộ mà bỏ Hoa Nghiêm. Cư sĩ bảo do tôi đem kinh Di Ðà sánh với Hoa Nghiêm, nên mới có kẻ làm luận đưa cao Tịnh Ðộ, đè nén Hoa Nghiêm. Xin hỏi bộ luận ấy ở đâu, do ai trứ tác? Nhưng tôi cũng chưa từng đem kinh Di Ðà sánh ngang với Hoa Nghiêm. Trong văn Sớ Sao của tôi chỉ nói: “Kinh Hoa Nghiêm cực viên, kinh Di Ðà được một ít phần viên”. Ðó là bảo kinh Di Ðà chỉ thuộc một phần pháp quyến của Hoa Nghiêm, có chi gọi rằng đồng bậc? Vả lại khi nói Hoa Nghiêm, đã gồm Tịnh Ðộ và nói Tịnh Ðộ cũng thông với Hoa Nghiêm. Thế thì kẻ diễn Hoa Nghiêm tự nói Hoa Nghiêm, người nói Tịnh Ðộ tự diễn Tịnh Ðộ, vẫn đồng hành mà không trái nhau. Người thời nay chỉ biết Hoa Nghiêm rộng hơn Cực Lạc, song không rõ đức Di Ðà chính là Phật Giá Na. Ngài Long Thọ, truyền bá kinh Hoa Nghiêm mà nguyện sanh Cực Lạc. Ðức Văn Thù, Phổ Hiền đồng phụ tá Phật Tỳ Lô Giá Na, hiệu là Hoa Nghiêm Tam Thánh, cũng phát nguyện về cõi Liên bang. Cư sĩ khuyên tôi vì căn Tịnh Ðộ nói Tịnh Ðộ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm. Xin hỏi các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ là bậc người nào? Những vị Bồ Tát ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, là căn Tịnh Ðộ hay Hoa Nghiêm? Cư sĩ lâu nay vẫn truyền dương kinh Hoa Nghiêm, mà trái với đức Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ, là điều tôi chưa hiểu nổi!
Thật ra, cư sĩ với tôi đều là bạn lành trong Hoa Tạng thế giới. Nay lão hủ lại muốn mời cư sĩ cùng làm huynh đệ ở Liên bang. Mong cư sĩ xét suy, đừng xem tôi là người bên ngoài vậy.
*** Xin đọc tiếp ở bên dưới!
1 month ago (edited) | [YT] | 3
View 1 reply
Chí Thành Cung Kính
PHỤ VẤN ĐÁP (Châu Hoằng Liên Trì Đại Sư) (tiếp theo)
Thơ hỏi: - Ðại đức Ðoạn Phàm có đem thơ phúc đáp của Tôn giả. Duyệt xem, thấy lời và ý ân cần, thật rất cảm lòng chiếu cố! Nhưng nỗi riêng chưa tỏ hết, còn xin có mấy điểm trình bày:
1. Kinh Pháp Hoa, trong phần khen công đức thọ trì có dẫn: “Nếu người nữ nào thọ trì phẩm này sẽ thoát hẳn nữ thân, sanh về Cực Lạc”. Như thế sự vãng sanh Tịnh Ðộ, phải chăng là nhân quả của nữ nhơn? Lại nữa, kinh Lăng Nghiêm, trong phần tuyển lựa viên thông, đức Văn Thù đã bác môn niệm Phật của ngài Thế Chí là vô thường, sanh diệt. Vậy ý Tôn giả nghĩ như thế nào?
2. Tề Kỷ thiền sư, khi các học giả đọc đến hai câu kệ của ngài Thiện Ðạo: “Duy có đường tắt tu hành. Chỉ niệm A Di Ðà Phật”, đã quát to: “Vẫn còn quanh lối cũ, niệm được cái gì?”. Thiền sư lại bảo: “Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A Di Ðà Phật!”. Lời của một bậc ngộ đạo nói như vậy, há không có ý vị ư?
3. Bởi thế bậc thức đạt đã bảo: “Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành không bằng một niệm ngộ Vô sanh pháp nhẫn”. Người trí cần phải vượt khỏi môn quyền học Tam thừa, không còn ngã và ngã sở. Nay sự vãng sanh Tịnh Ðộ, ta là người hay sanh, Cực Lạc là chỗ sanh về, thì năng, sở, người cảnh còn phân biệt rõ ràng, đâu gọi là cứu cánh?
4. Nếu như nói: “Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh”, đây tất phải đợi sau khi vãng sanh thấy đức Di Ðà mới được ngộ đạo, phải chăng là quá chậm trễ xa vời?
5. Trong thơ trước, tôi đã khuyên Tôn giả “Vì căn Tịnh Ðộ nói Tịnh Ðộ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm”, thật đã vì ngài mà tỏ bày hết tâm não. Tôn giả lại không lưu ý, nên vừa rồi thính chúng nơi pháp hội của ngài từ Hàng Châu sang đất Tô, vị nào cũng nôn nao cầu về chín phẩm. Nhân khi cùng nói chuyện, tôi vừa đề cập đến Thượng thừa thì họ đều sửng mắt kinh lòng! Ðó là lỗi của thầy, hay của hàng đệ tử? Ðấng đại trượng phu khí lượng phải xung thiên, nay ngài đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa, sao không đủ tác lược của bậc đại nhơn, mà chỉ bắt chước hành động những ông già bà cả ăn chay ở đầu làng ngõ xóm? Nếu một mai bị bậc lanh lợi thông suốt hỏi đến, sẽ toan ẩn mình trên sao Bắc Ðẩu, hay chui thân vào núi Thiết Vi ư?
6. Thế thì việc Tôn giả muốn vời tôi cùng làm bạn sen nơi Cực Lạc, khác nào bảo kẻ này gánh gai bỏ vàng, đuổi theo vật mà chạy vào mê lộ? Há chẳng nghe nói: Nếu là chim Đại bàng kim súy, mới giương cánh đã vượt cao chín tầng mây; ngựa Nhiếp ảnh thần câu, vừa cất vó đã lướt ra ngoài vạn dặm. Hạng này không còn theo lớp mà ăn uống, cũng không tùy tiện chịu vùi thân. Người xưa bảo: “Nếu muốn cứu cánh việc ấy, phải đứng trên chót vót đỉnh non cao, đi sâu tận lòng đáy biển thẳm. Như chưa bỏ được sự êm ấm của khuê phòng, thì có chỗ nào dùng được!”.
Cho nên, Phật pháp là việc lớn, không phải phàm thường. Mong ngài nghĩ lại!
Thơ đáp: - Mấy điều huệ cố của cư sĩ, lời hay lẽ diệu, luận biện điệp trùng, thật là đáng ngợi khen, đáng ngưỡng vọng. Nhưng trộm nghĩ: “Lòng thương tôi tuy sâu, song tiếc đã lắm lời phí uổng!”.
Nếu cư sĩ quả muốn tuyên dương Thiền tông, ức chế Tịnh Ðộ, thì không cần nói chi nhiều. Sao chẳng bảo: “Chư Phật trong ba đời bị miệng ta nuốt mất hết cả. Một đức Phật còn chẳng lập, có ai là A Di Ðà?”. Lại sao không bảo: “Nếu người biết được tâm, đại địa không tấc đất. Một tấc đất đã không, nơi nào là cõi Cực Lạc?”. Chỉ dùng hai lời ấy thôi, đủ gồm nhiếp hết những điều cư sĩ muốn nói. Nay nghĩ nếu mỗi mỗi đều thù đáp, e phạm lỗi đấu tranh. Nếu hẳn không trả lời, vì đạo pháp có tương quan, lại chẳng thể im lặng. Vậy xin tỏ bày ước lược như sau:
1. Cư sĩ dẫn kinh Pháp Hoa, nói sự vãng sanh Tịnh Ðộ là nhân quả của người nữ. Thế thì việc Long Nữ thành Phật, cũng là nhân quả của người nữ ư? Lại dẫn kinh Lăng Nghiêm nói: Ðức Văn Thù bác niệm Phật là vô thường, sanh diệt, không viên thông. Thế tại sao ngài Kiều Trần Như tỏ ngộ hai chữ KHÁCH TRẦN có thể gọi là suốt lý vô thường, hợp lẽ bất sanh diệt, lại chẳng được chọn là pháp viên thông? Nếu quả thật: Ðức Quán Âm đỗ cao, ngài Thế Chí thi rớt, thì sao cư sĩ chẳng nghe biết điều thí dụ: “Cửa rồng chạm trán” là lời của kẻ quê mùa miền Ðông dã ở nước Tề?
2. Về những điều của Tề Kỷ thiền sư bảo, cư sĩ đã học Thiền, sao chẳng biết đó là các nhà tông sư vì người cởi chấp mở trói, ý ở ngoài lời, lại cứ theo văn tự hiểu thành sự thật, mà chịu chết dưới câu nói như thế? Nếu quả vậy, thì cổ đức bảo: “Ðạp trên đỉnh đầu Phật Tỳ Lô mà đi”, cũng là đạp thật sự hay sao? Những cơ phong ấy trong các Ngữ lục có đến ngàn muôn ức. Lão hủ bốn mươi năm về trước cũng đã từng dùng đến để cho lời nói cao siêu xuất cách, câu văn mạnh mẽ hùng hào. Về sau xét lại biết hổ thẹn, không còn dám theo lề lối cũ, nay chợt nghĩ đến hãy còn đỏ mặt. Như Tề Kỷ thiền sư nói: “Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A Di Ðà Phật!”. Xin cũng dùng chuyển ngữ đối đáp: “Nay chính thật như con nhớ mẹ, trở lại quê xưa, vui thay A Di Ðà Phật!”. Thử đem cân lường câu nói này với lời ngài Tề Kỷ, xem bên nào ít nhiều nặng nhẹ, và có bao khoảng cách xa?
3. Trong thơ lại dẫn lời cổ nhơn bảo: “Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành, không bằng một niệm ngộ Vô sanh pháp nhẫn”. Xin hỏi: “Cư sĩ đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn chưa?”. Nếu chứng được thì không nên cho rằng: Ta là người hay sanh, Tịnh Ðộ là chỗ sanh về. Tại sao? Bởi tâm tức là cảnh, ai là người hay sanh? Cảnh tức là tâm, đâu là chỗ được sanh? Vì không còn thấy năng sở, nên tuy vãng sanh mà chưa từng có sanh. Ðó mới thật là chân vô sanh. Nếu cho không sanh về đâu mới là vô sanh, thì thành ra lỗi đoạn diệt, thiên không vậy.
4. Cư sĩ bảo: Nếu đợi hoa nở thấy Phật mới ngộ vô sanh là chậm trễ xa vời. Kẻ hiểu Thiền tông sao chẳng biết: từ mê được ngộ như giấc chiêm bao dài mới thức tỉnh? Người niệm Phật tùy theo căn cơ, có vị trong hiện đời đã kiến tánh. Ðó là hoa sen nở trong giây phút. Có kẻ sau khi vãng sanh mới kiến tánh. Ðó là hoa nở về lâu. Bởi căn cơ có sáng tối, công phu có trễ siêng, nên hoa nở mới có sớm muộn, đâu được nhất khái cho là sai chậm ư?
5. Trong thơ còn đề cập đến mấy vị Tăng ở núi hoang nào đó, khi hỏi tới Thượng thừa thì đều sửng mắt kinh lòng! Cư sĩ khuyên tôi với căn Hoa Nghiêm thì nói Hoa Nghiêm, với cơ Tịnh Ðộ thì đàm Tịnh Ðộ. Nay những kẻ ấy thuộc về hàng độn căn, chính nên giảng Tịnh Ðộ, sao cư sĩ không tùy bịnh cho thuốc, lại luận Thượng thừa với họ làm chi?
Cư sĩ lại bảo tôi đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa, mà không đủ tác lược của bậc đại nhơn. Lão hủ chưa từng dám đương với danh dự ra ứng thế, nên tự ưng không có tác lược của bậc đại nhơn. Ðiều này hãy tạm gác qua, không cần bàn luận. Nhưng nếu bỉ người tu Tịnh Ðộ là hạng ông già bà cả ăn chay quê mùa, thật ra không phải chê các vị đó đâu, mà chính là bỉ đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ vậy! Ðâu riêng gì những vị Bồ Tát ấy, mà chư Tổ như Huệ Viễn, Thiện Ðạo, Thiên Thai, Vĩnh Minh, chư đại thiện tri thức, các hàng danh nhơn niệm Phật, theo cư sĩ, cũng là hạng quê mùa cả ư? Song hạng quê mùa nếu niệm Phật được vãng sanh, sẽ lên ngôi Bất thối chuyển, cũng đâu nên xem rẻ khinh chê? Những ông già bà cả ăn chay niệm Phật, cũng đáng khen là họ biết giữ theo quy củ quê mùa của chính mình. Còn hạng thông minh tài biện, ăn thịt uống rượu, vọng nói Bát Nhã, hôm sớm cứ tìm chư Tăng gạn thiền nói đạo thì thế nào?
Ðến như việc các ông già bà cả khi bị kẻ lanh lợi thông suốt hỏi đến, thì chẳng cần lên sao Bắc Ðẩu, vào núi Thiết Vi làm chi cho cao xa. Họ chỉ cần đặt giường nằm nơi cổ họng, trải tòa ngồi trên đôi mắt của các vị lanh lợi thông suốt ấy. Làm như thế để chi? Ðể dạy chúng hãy tạm đóng môn tam muội nơi cửa miệng, biết nhắm mắt hồi quang phản chiếu xét trở lại chính mình đó thôi!
6. Cư sĩ cho rằng việc khuyên niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ là điên đảo, đuổi theo vật vào mê lộ, là gánh gai bỏ vàng, làm khuất nhục đến mình. Nhưng các thí dụ ấy còn chưa thân thiết. Nay lão hủ xin đem một thí dụ khác thay thế:
Có một lão nông chân thật gởi thiếp vào cửa vị phú trưởng giả, mời đến nhà ở đồng ruộng của mình viếng cảnh. Mọi người nghe nói đều cười. Lão nông lại quét dọn đường sá sạch sẽ, đến mời thỉnh lần nữa. Người gác cửa nhà phú trưởng giả cười bảo: “Chủ nhơn lần trước không quở trách ông là may lắm rồi. Ông định làm mặt dày hay sao?”. Lão nông đáp: “Tôi thấy trong các nhà giàu, có kẻ làm giàu mà bất nhơn. Có người ngoài giàu nhưng trong nghèo. Có kẻ chưa giàu song tỏ ra kiêu mạn trước. Có người chỉ giữ kho, giữ sổ sách ở nhà giàu, mà tự cho là mình giàu. Vả lại cảnh giàu sang như Kim cốc, My ô, nay còn đâu ư? Tôi là một lão già ở đồng ruộng, an hưởng sự vui thái bình, nên quên phận thấp kém của mình, mới thương xót mà mời thỉnh. Thôi từ nay cũng xin tự biết lỗi rồi!”. Nói xong cùng nhau cười rộ mà chia tay.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
1 month ago (edited) | [YT] | 6
View 1 reply
Chí Thành Cung Kính
TỈNH THƯỜNG ÐẠI SƯ (LIÊN TÔNG THẤT TỔ)
Tỉnh Thường đại sư, tự Thứu Vi, người đời Tống, con nhà họ Nhan ở Tiền Ðường. Khi lên bảy, ngài gặp duyên lành xuất gia và mới mười bảy tuổi đã thọ giới Cụ túc.
Trong niên hiệu Thuần Hóa, Ðại sư đến trụ trì chùa Chiêu Khánh. Vì mến di phong của Lô Sơn, ngài tạo tượng Phật A Di Ðà, kết hợp bạn sen, thành lập Liên Xã. Sau đó, ngài lại chích máu tả phẩm Tịnh Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm. Do nhân duyên ấy lại đổi tên Liên Xã thành Tịnh Hạnh Xã. Hàng sĩ phu dự vào hội niệm Phật được một trăm hai mươi người. Ngoài ra các hàng nam nữ thiện tín khác có đến hàng vạn, đều xưng là Tịnh Hạnh đệ tử. Trong đây quan Tướng quốc Vương Văn Ðán làm hội thủ. Riêng phần Tỳ kheo Tăng, Ðại sư độ được hơn một ngàn người, đều tu môn niệm Phật.
Năm Thiên Hy thứ tư, ngày 12 tháng giêng, theo thường khóa Ðại sư ngồi kiết già niệm Phật. Giây lát, bỗng nói to lên rằng: “Ðức A Di Ðà Thế Tôn đã đến!”. Rồi ngồi yên mà hóa, thọ 62 tuổi.
Trong giờ ngài thị tịch, đại chúng thấy mặt đất biến thành sắc vàng ròng, rất lâu mới hoàn phục như cũ.
Lời phụ:
Kinh dạy: “Tâm tịnh thì cõi Phật thanh tịnh”. Ðại sư đã tu nhân niệm Phật thanh tịnh, tất phải cảm tịnh quả. Nhưng vì tịnh quả quá mãnh liệt nên không đợi sanh về Tây phương mà ảnh hưởng đến cảnh uế địa này tạm biến thành sắc hoàng kim. Ðây là một bằng chứng cho biết cảnh đất vàng cây báu ở Tịnh Ðộ là có thật, vì “tất cả pháp do tâm tạo”.
Quả vị của Ðại sư tất ở ngôi Thượng Thượng Phẩm.
(Trích từ Mấy Điệu Sen Thanh - Hòa thượng Thích Thiền Tâm tuyển dịch từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
1 month ago (edited) | [YT] | 9
View 1 reply
Chí Thành Cung Kính
DIÊN THỌ ÐẠI SƯ (LIÊN TÔNG LỤC TỔ) (phần 1)
Diên Thọ đại sư, tự Xung Huyền, người đời Tống, con của họ Vương ở Tiền Ðường. Lúc thiếu thời, ngài thích tụng kinh Pháp Hoa, cảm đến bầy dê quỳ mọp nghe kinh.
Lớn lên, Xung Huyền được Văn Mục Vương tuyển dụng, cho làm quan trông nom về thuế vụ. Nhiều lần ngài lấy tiền công quỹ đến Tây Hồ mua cá trạnh phóng sanh. Việc phát giác ra, bị Pháp ty thẩm định, xử ngài vào tội tử hình. Lúc sắp đem đi chém, Văn Mục Vương bí mật cho người rình xem, nếu thấy ngài nhan sắc thản nhiên, không tỏ vẻ buồn rầu lo sợ, thì phải đem về trình lại. Thấy ngài trước sau vẫn an điềm, Sứ giả trao sắc chỉ cho quan Giám trảm, rồi dẫn về diện kiến vua. Khi Vương hỏi duyên cớ, ngài đáp: “Tôi tư dụng của công, thật đáng tội chết. Nhưng toàn số tiền đó, tôi dùng mua cứu được muôn ức sanh mạng, thì dù thân này có chết, cũng được vãng sanh về cõi Liên bang, vì thế nên tôi không lo sợ”. Văn Mục Vương nghe qua cảm động, ra lịnh tha bổng. Ngài xin xuất gia, Vương bằng lòng.
Sau đó, ngài đến quy đầu với Thúy Nham thiền sư ở Tứ Minh. Kế lại tham học với Thiều quốc sư ở Thiên Thai, tỏ ngộ tâm yếu, được Quốc sư ấn khả. Ngài từng tu Pháp Hoa Sám ở chùa Quốc Thanh. Trong lúc thiền quán, thấy đức Quán Thế Âm Bồ Tát rưới nước cam lồ vào miệng, từ đó được biện tài vô ngại. Do túc nguyện muốn chuyên chú về Thiền hoặc Tịnh mà chưa quyết định, ngài đến thiền viện của Trí Giả đại sư làm hai lá thăm: một lá đề “Nhất tâm Thiền Định”, còn lá kia là “Trang nghiêm Tịnh Ðộ”. Kế lại chí tâm đảnh lễ Tam Bảo sám hối, cầu xin gia bị. Ðến khi rút thăm, luôn bảy lần đều nhằm lá “Trang nghiêm Tịnh Ðộ”. Từ đây ngài nhứt ý tu về Tịnh nghiệp.
Năm Kiến Long thứ hai đời Tống, Trung Ý Vương thỉnh ngài trụ trì chùa Vĩnh Minh, tôn hiệu là Trí Giác thiền sư. Ngài ở đây trước sau mười lăm năm, độ được một ngàn bảy trăm vị Tăng. Ðại sư lập công khóa, mỗi ngày đêm hành trì một trăm lẻ tám điều. Và hai điều đặc biệt trong đó, là tụng một bộ kinh Pháp Hoa, niệm mười muôn câu Phật hiệu. Ban đêm khi ngài qua gộp núi khác niệm Phật, những người ở gần nghe tiếng loa pháp cùng thiên nhạc trầm bổng du dương. Về kinh Pháp Hoa, trọn đời ngài tụng được một muôn ba ngàn bộ. Ðại sư thường truyền giới Bồ Tát, mua chim cá phóng sanh, thí thực cho quỷ thần, tất cả công đức đều hồi hướng về Tịnh Ðộ. Ngài có trứ tác một trăm quyển Tông Cảnh Lục, hội chỉ thú dị đồng của ba tông: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Duy Thức.
Ðại sư lại soạn ra tập Vạn Thiện Ðồng Quy. Trong đây lời lẽ chỉ dạy về Tịnh Ðộ rất thiết yếu, đại lược như sau:
Hỏi: - Cảnh duy tâm Tịnh Ðộ đầy khắp mười phương sao không hướng nhập, mà lại khởi lòng thủ xả, cầu về Cực Lạc gởi chất ở đài sen. Như thế đâu hợp với lý vô sanh, và đã có tâm chán uế ưa tịnh thì đâu thành bình đẳng?
Ðáp: - Sanh duy tâm Tịnh Ðộ là phần của các bậc đã liễu ngộ tự tâm, chứng được pháp thân vô tướng. Tuy nhiên, theo kinh Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới, thì những bậc chứng Sơ Ðịa vào Duy Tâm Ðộ, cũng nguyện xả thân để mau sanh về Cực Lạc. Thế thì biết ngoài tâm không pháp, cảnh Cực Lạc đâu ngoài Duy Tâm? Còn về phần “Lý vô sanh và môn bình đẳng” tuy lý thuyết là như thế, nhưng kẻ lực lượng chưa đủ, trí cạn tâm thô, tập nhiễm nặng, lại gặp cảnh trần lôi cuốn mạnh mẽ, dễ gì mà chứng nhập được. Những kẻ ấy cần phải cầu sanh Cực Lạc, nhờ cảnh duyên thắng diệu ở đó, mới mau chứng vào Tịnh Ðộ duy tâm và thực hành đạo Bồ Tát.
Thập Nghi Luận cũng nói: “Bậc trí tuy liễu vô sanh, song vẫn hăng hái cầu về Tịnh Ðộ, vì thấu suốt sanh thể như huyễn không thể tìm được. Ðó mới thật là chân vô sanh. Còn kẻ ngu không hiểu lý ấy, bị nghĩa sanh ràng buộc, nghe nói sanh thì nghĩ rằng thật có tướng sanh, nghe nói vô sanh lại tưởng lầm là không sanh về đâu cả. Do đó, họ mới khởi niệm thị phi chê bai lẫn nhau gây thành nghiệp tà kiến báng pháp. Ðáng thương thay!
Hỏi: - Kinh luận nói: “Ngoài tâm không pháp, Phật không khứ lai”. Nhưng sao người tu Tịnh Ðộ lại thấy Thánh tướng và việc Phật đến rước là như thế nào?
Ðáp: - Kinh Bát Chu nói: “Như người nằm mơ thấy bảy thứ báu, hàng thân thuộc đều cùng vui mừng. Ðến lúc thức tỉnh nghĩ lại, chẳng biết cảnh sang giàu ấy ở đâu? Sự việc niệm Phật cũng như vậy”. Thế thì biết các cảnh đều như huyễn, do duy tâm hiện, tức có mà không, tuy hiện tướng khứ lai song thật không có đến đi. Cho nên, thánh cảnh tuy như huyễn, song chẳng phải không có huyễn tướng, việc đến đi tuy không thật, song chẳng ngại gì có tướng khứ lai. Ðó là lý trung đạo. Huyễn sắc tức chân không chính huyễn sắc, có và không đều vô ngại. Tất cả sự và cảnh chúng sanh đang sống ở thế gian này cũng đều như thế.
Thật ra, chân cảnh của duy tâm, không có đông tây cùng các phương hướng, không có đến đi qua lại, cũng không có một pháp nào ngoài tâm. Nhưng với bậc đã dứt trừ nghiệp hoặc, chứng Vô Sanh Nhẫn, vào thật tướng của pháp thân, mới dám đương sánh huyền lý trên đây. Còn hàng sơ tâm mới tu, chớ nên lầm tự nhận.
(Xin đọc tiếp phần 2 ở bên dưới)
1 month ago (edited) | [YT] | 7
View 1 reply
Load more